View Full Version : Phong thủy Huyền Không Phi Tinh
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
PHẦN I
Phong Thủy Huyền Không
Nói về hai chữ HUYỀN KHÔNG
Chương trọng Sơn nói:” Vô định, vô cứ, không phương hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không”
Lạc Sĩ Bằng viết:”Huyền nghĩa là trời đất khiến nó như thế. Không nghĩa là đất phải bẩm thụ như thế. Chính vì chú trọng mặt đất như thế thì có gì là “Không”? Nhưng đất cũng có lưu động, thông dòng. Đấy chính là chỗ “không” của mặt đất vậy. Đấy cũng chính là chỗ xảo diệu, khéo léo của đất vậy.
Thẩm Trúc Nhưng giải thích về Huyền Không: “Huyền nghĩa là nhất (một) (Huyền giả nhất dã). Không cũng là vạch liền trong bát quái. Song “không “ở đây không phải là không có gì mà không ở đây vẫn bao hàm cái có.
Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) nói về chữ “không”:
Sắc bất dị không
Không bất dị sắc
Sắc tức thị không
Không tức thị sắc
Thụ tưởng hành thức
Diêc phục như thị
“Sắc(vật) chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Cái cảm nhận và suy nghĩ cũng hệt như vậy”.
Khái niệm không ở đây phải dựa vào khái niệm có mà nên vậy.
HUYỀN KHÔNG là sự đến từ hư vô rồi trở về hư vô. Từ một đến chín, để suy đoán sự sinh ra hay mất đi, thăng hay giáng, âm hay dương trong trời đất.
Thế giới chúng ta đang sống, con người – trời – đất , thời gian và không gian, mỗi cái đều khác nhau. Nhưng cùng tồn tại theo một qui luật chung trong mối quân bình hài hòa, Chúng đã ở đúng trong vị trí mà chúng phải tồn tại. Qui luật luôn biến đổi mà hài hòa cân đối đó chính là thuật “phong thủy” mà Huyền Không địa lý nghiên cứu.
Sơn –tĩnh, Thủy – động, nhưng có mối quan hệ quân bình với nhau. Không thể chỉ dùng mắt thường để xem mà phải dùng “tâm nhãn” để xem nữa.
HUYỀN KHÔNG nghiên cứu sự thay đổi, biến hóa của sự vật, biểu thị bằng các số từ 1 đến 9 di chuyển theo một quĩ đạo nhất định là vòng “Lường thiên xích”
Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết:
Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi,
Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi,
Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri
Tạm dịch:
Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích,
Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay,
Tìm hiểu được sự sống chết và được mất,
Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Cho nên Huyền khôngđịa lý là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).
Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích
Hãy coi thử ma phương sau:
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/maphng.jpg
Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ
1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó “Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo “Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới luôn luôn tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. Bắt đầu từ Bắc đến Đông, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đông vì ở Bắc bán cầu: Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đông biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải phía Nam bán cầu “lường thiên xích” bay ngược với Bắc bán cầu)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/Htngsinh.jpg
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ
Khẩu quyết của hà đồ như sau:
“Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC.
Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM.
Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG.
Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY.
Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung”
Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC.
2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM
3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG
4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY
5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa”
Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là : ĐÔNG-TÂY-NAM-BẮC mà thôi.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/h-hnh.jpg
2 – Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ 1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khắc Thổ, rồi lại về Thủy, vì Thổ khắc Thủy.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/Lcthtngkhc.jpg
Theo truyền thuyết vua VŨ khi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có đồ hình phương vị của cửu tinh. Vua Vũ sao chép lại và gọi đó là Lạc Thư.
Khẩu quyết của Lạc Thư :
“Đời Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục-Bát vi túc; Ngũ cư trung vị”
Có nghĩa là : “ Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3; bên phải 7; vai là 4 và 2; chân là 6 và 8; còn 5 ở chính giữa”
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/lcth-hnh.jpg
__________________
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
3- Tiên Thiên Bát Quái: từ Hà Đồ người đời sau này khi phát hiện được 8 quẻ dịch mới lập thành 8 hướng và đưa 8 quẻ dịch vào đó (các chữ số là số quẻ tiên thiên)
4-Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư và cũng là số quẻ Hậu Thiên)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/tin-huthinbtqui-sa.jpg
Với việc phát minh và sử dụng 8 hướng trên la bàn, vua Vũ đã có thể tách rời các cặp và phân bố chúng ra khắp 8 hướng, nhưng trên thực tế vẫn là qui tụ về những cặp số của hà đồ tức tiên thiên. Trong Hà Đồ, 1-6 đứng chung ở phía Bắc. Còn trong Lạc Thư , 1 vẫn nằm ở phía Bắc, còn 6 ở Tây Bắc. Nên tuy hình thức là tách rời, nhưng thật ra vẫn là kề vai sát cánh, đứng bên cạnh nhau mà tạo thành thế “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và với sự ra đời của Hậu thiên bát quái, tính chất, phương vị, ngũ hành của cửu tinh và của 8 quẻ đều đã được khẳng định. Nên chúng chính là khởi điểm cho mọi ngành học thuật phương đông, trong đó có phong thủy.
Các quẻ bát quái đứng trong Hậu thiên (cũng như lạc thư) tạo thành một vòng tương sinh.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/HUTHINTNGSINHsa.jpg
Phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái như sau:
- Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa.
- Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy.
- Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc.
- Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim.
- Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
- Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
- Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim.
- Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
- Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ.
Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau:
đông nam..............nam...............tây nam
............4................9................2
đông.....3................5................7 tây
............8................1................6
đông bắc.............bắc..............tây bắc
Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích.
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
Âm dương
Trong cuộc sống chúng ta luôn luôn tồn tại 2 cái trái nghịch nhau:
- Mặt phải và mặt trái
- Vui và buồn
- Quân tử và tiều nhân
- Tối và sáng
- Thuận và nghịch
- Nóng và lạnh
- V. v……..
Trong tất cả những cái giống nhau thì đều có điểm khác nhau
Trong tất cả những cái khác nhau thì đều có điểm giống nhau
Đó là Âm – Dương
Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương luôn luôn dung hoà lẫn nhau, bổ túc cho nhau,…
Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng:
Thiếu dương: Khí dương còn non.
Thái dương : Dương cực mạnh
Thiếu âm : Âm mới sinh
Thái âm : Âm dày đặc.
Đặc tính :
Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể.
Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại, chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể
Trong sự biến hoá tuần hoàn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu
Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy luôn dung hoà lẩn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trò quan trọng trong cuộc sinh thành của vạn vật.
Âm Dương và sự hình thành tám quẻ tượng
Chu Hy nói rằng : Dịch có Thái Cực sinh hai nghi (âm và dương) , hai nghi sinh bốn tượng (tức thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm), bốn tượng sinh bát quái (tức càn , đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) rồi bát quái lại sinh 64 quẻ cũng như rễ thì có gốc, gốc có cành, cành lớn càng ít thì cành nhỏ càng nhiều. Âm trường thì dương tiêu (âm lớn mạnh thì dương mất đi), dương trường thì âm tiêu (mặt trời càng lên cao thì bóng tối dần càng mất đi). Đó là lẽ sinh sinh diệt diệt trong vũ trụ. Như ta từ không mà đến rồi lại sẽ trở về không vậy.
Khôn (địa)
☷ Khi trời đất còn là mội cõi hư vô . Do Đó tính của quẻ là Hư, Hình ảnh của quẻ là lục đoạn, lý là nhu thuận, thuận dã, mềm mỏng, như mặt đất yêu thương mọi vật trên đó (thổ), Dương thuận tòng,hòa theo lẽ, chịu lấy,ẩn, như tuân theo mà được lợi, thấp, nhỏ, tối,là hình ảnh cũa mẹ già. Số tiên thiên là 8, sô hậu thiên là 2 (cũng là số của cửu tinh)
Cấn (sơn)
☶ Không còn ẩn nữa và dương bắt đầu xuất hiện nhưng còn non vì ở ngọn. Do đó tính là Ngưng, hình ảnh quẻ là phủ hạ tức trùm lên cũng là hình trái núi (thổ). Lý là Ngưng nghỉ. Chỉ dã, ngăn giữ, ở, thôi, ngừng lại, đậy lại, để dành, Ngăn cấm, vừa đúng chỗ, che phủ. Ngôi thứ là trai út hay thiếu (dương còn non). Ngôi thứ là thiếu nam (trai út). Số tiên thiên 7, số hậu thiên là 8
Khảm (thủy)
☵ Dương lẩn vào trong tức được đứng vững. Do đó tính là Trụ (cây trụ muốn vững thì cần cắm xâu) hình ảnh là trung mãn (đầy bên trong) là eo thắt, như được bao kín (thủy) , Lý là hãm hiểm, hãm dã, hãm vào trong, bắt buộc, xuyên xâu vào trong, hố xâu, trắc trở, hiểm hóc, gập ghềnh. Ngôi thứ là trung nam (đồng lấy dị mà luận). Số tiên thiên là 6, số hậu thiên là 1
Tốn (phong)
☴ Xuất hiện thêm một hào dương, Âm lui dần về tức ẩn tàng, dấu diếm. Do đó tính là Tiềm. hình ảnh là hạ đoạn (đứt dưới), như cây cổ thụ có rễ tỏa ra (mộc cỗi). Lý là Thuận nhập, thuận dã (chiều theo), thuận theo ý trên, theo xuống, theo tới, theo lui, có sự dấu diếm ở trong. Ngôi thứ là trưởng nữ. Số tiên thiên là 5, số hậu thiên là 4
Chấn (lôi)
☳ Lúc này khí dương đã đủ sức xuống đến gốc để chuẩn bị chu kỳ mới bung lên. Do đó tính là Khởi. Hình ảnh là ngưỡng thượng (chén ngửa), như mầm non mới nhú (mộc non). Lý là động dụng, động dã, bung lên, khởi lên, sợ hải, nổ vang, chấn động, chấn kinh, phân phát. Ngôi thứ là trưởng nam. Số tiên thiên là 4, số hậu thiên là 3
Ly (hỏa)
☲ Xuất hiện một khí dương bên trên ngọn như ngọn lửa tỏa ra. Do đó tính là Vũ. Hình ảnh là trung hư, rỗng ở trong , như ngọn lửa thấy vậy mà trong rỗng mà thôi (hỏa). Lý là nóng sáng, lệ dã, sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô trương, trống trơn, không yên. Ngôi thứ là trung nữ (gái giữa). Số tiên thiên là 3, số hậu thiên là 9
Đoài (trạch)
☱ Lúc này dương đã làm chủ đẩy âm hiện lên trên. Do đó tính của quẻ là Hiển. hình ảnh là thượng khuyết, là khuyết mẻ , như lưỡi dao bị mẻ vậy (kim bén , mỏng) . Lý là hiện đẹp, duyệt dã, vui lòng, vui vẻ, ưa thích, nói năng, khuyết mẻ. Ngôi thứ là thiếu nữ (gái út). Số tiên thiên là 2, số hậu thiên là 7
Kiền (thiên)
☰ Dương đã hoàn toàn xuất hiện như một điều hiển nhiên. Do đó tính là Như. Hình ảnh tam liên, tròn đầy , cứng chắc như khối kim loại (kim khối, cục). Lý là cương kiện, kiện dã, mạnh mẽ, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn , cao, dương sáng. Hình ảnh của người Chồng hoặc Cha. Số tiên thiên là 1, số hậu thiên là 6
Tóm lại: sự hình thành tính chất của 8 quẻ qua các giai đoạn từ hư không cho đến hiện tại:
8_Hư – 7_Ngưng – 6_Trụ - 5_Tiềm – 4_Khởi – 3_Vũ – 2_Hiển – 1_Như
Từ tám quẻ tiên thiên khi chồng nên nhau giống như những sự kiện được liên kết lại mà hình thành nên 64 quẻ dịch.
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Ngũ hành
Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình thành qua 2 giai đoạn
1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành
2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ;
-Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên)
- trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên)
- Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên )
- Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ)
Phương hướng;
Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ.
Ngũ khí ;
- Phong khí ( gió)thuộc mộc
- Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả
- Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ
- Táo khí (khí khô) thuộc kim
- Hàn khí ( khí lạnh)
Tạng phủ
- Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi
- Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật
- Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận
- Hoả: Mắt, tim
- Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng
Hình dáng:
- Kim: Tròn, dày
- Mộc: hẹp dài
- Thuỷ : Khúc khuỷu
- Hoả: nhọn sắc
- Thổ: vuông vức
Quẻ dịch;
- Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI
- Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN
- Thuỷ: quẻ KHẢM
- Hoả: Quẻ LY
- Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN
Thiên can:
- Kim: canh, tân
- Mộc: Giáp, ất
- Thuỷ: Nhâm, quí
- Hoả: Bính đinh
- Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi:
- Kim: Thân, dậu
- Mộc: dần, mão
- Thuỷ: Hợi, tý
- Hoả: Tỵ, ngọ
- Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi
Sinh khắc của ngũ hành
Sinh:
- kim sinh thuỷ
- thuỷ sinh mộc
- mộc sinh hoả
- hoả sinh thổ
- thổ sinh kim
Khắc:
- Kim khắc mộc
- Mộc khắc thổ
- Thổ khắc thuỷ
- Thuỷ khắc hoả
- Hoả khắc kim
Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.
Ngũ hành phản sinh
Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.
Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.
Ngũ hành phản khắc
Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.
Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:
- Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
- Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.
Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.
( trích phongthuyhuyenkhonghoc.com)
Lượng thiên xích
Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái"
1- Lượng thiên xích thuận:
đông nam.............nam.............tây nam
............9..............5..............7
đông.....8...............1..............3...tây
...........4................6..............2
đông bắc...............bắc...............tây bắc
(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.
Hình 2: Lường Thiên Xích Thuận
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=16&d=1341060597&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=16&d=1341060597)
2- Lượng thiên xích nghịch
đông nam..................nam...............tây nam
............2....................6................ ...4
đông.....3....................1................. ..8...tây
............7....................5................ ...9
đông bắc...................bắc.................tây bắc
(1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.
Hình 3. Lường Thiên Xích Nghịch.
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=17&d=1341060731&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=17&d=1341060731)
Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long.
Cửu tinh và ý nghĩa
- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay
* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm
Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau.
Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để ứng dụng sau này
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Hướng nhà và Tâm nhà
1- Hướng nhà:
Hướng nhà là một trong nhiều căn bản của Huyền Không Phi Tinh. Tuy là căn bản nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm . Nếu không thì sẻ nhận thức sai về phương hướng của căn nhà . Phái phi tinh dùng hướng nhà chứ không dùng hướng cửa như phái bát trạch
Đại đa số hướng nhà đều đi chung với hướng cửa ngoại trừ vài trường hợp như cửa mở bên hông nhà, nhà có kiến trúc khác thường, v.v.
Nói một cách đơn giản thì hướng nhà phải là hướng đối ngược với hướng của người đi tới nhà . Như người đi tới hướng Nam để tới nhà thì hướng nhà là hướng bắc.
Có người dùng cách lấy dương làm hướng, theo cách này thì dương là nơi khí động, có thủy, thấp v.v. Như vậy sẻ gặp nhiều trường hợp rất khó quyết định, thí dụ như có nhà phía sau trống trải và thấp còn phía trước thì có đường lộ và đôi khi cao hơn phía sau vậy làm sao định hướng. Có nhà phía sau rộng và thoáng, phía trước hẹp lại có đường .
Khi phân vân thì ta phải lập nhiều tinh bàn rồi so sánh với diễn biến đã sảy ra trong nhà đó phù hợp với tinh bàn nào thì dùng tinh bàn của hướng đó.
Đo hướng nhà thì đơn giản hơn nhận định hướng, chỉ cần chọn một vách nhà song song với hướng của nhà, sau đó căng một sợi giây song song với vách đó và chạy ra khỏi nhà khoản 2-3 mét . Để la bàn song song với sợi giây đó và xem bao nhiêu độ . Nếu có khả năng canh bằng mắt thì không cần dùng giây .
Trong một vài trường hợp không có vách nào song song với hướng nhà thì chọn một vách vuông gốc với hướng nhà mà đo, sau đó cộng hoặc trừ 90 độ thì sẻ được hướng nhà
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/ohngnh.jpg
Tại sao phải làm như dưới đây ? Tại gì đó là một cách đo chính xác nhất mà không cần phải có nhiều kinh nghiệm. Có người thì đứng giửa nhà hay trước cửa nhìn ra hoặc đứng trước nhà nhìn vào v.v. Những cách này không thể chính xác được . Tại sao ? đó là gì la bàn không có điểm tựa, và người đứng không có điểm tựa, nhích một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới kết quả đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có người lại phân ra 384 quẻ như vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi đừng nói gì tới 1 độ
Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/DSC08219.jpg
2- Tâm nhà :
Tâm nhà củng như hướng nhà là một căn bản mà người học phong thủy lẩn người muốn xem phong thủy cần biết . Nếu lấy hướng sai thì xem phong thủy sẻ sai, nếu lấy tâm nhà sai thì xem phong thủy củng sai .
Đại đa số những thầy phong thủy đều dựa vào kinh nghiệm của mình và mức phán đoán của mình mà chọn tâm nhà . Mức độ chính xác dựa theo cách này thì tùy theo kinh nghiệm của mổi người .
Nhưng nếu dựa vào bản vẻ và toán học để tìm tâm nhà thì mức độ chính xác sẻ cao và không phân biệt giửa người không có kinh nghiệm và người có kinh nghiệm .
Tâm nhà trong phong thủy gọi là thái cực và củng có nhiều người gọi là thiên tâm. Thái cực là danh từ dùng chung cho các tâm điểm chứ không riêng về tâm nhà . Mọi vật đều có thái cực và ý nghĩa của thái cực là điểm giửa của các vật, nơi mà vật đó phụ thuộc vào để giử thăng bằng .
Hình dạng nhà cửa ngày nay cũng rất phức tạp và đa dạng, khiến cho việc tìm tâm nhà đang từ là 1 vấn đề dễ dàng đôi lúc cũng trở nên khó khăn. Đối với những nhà được xây theo hình vuông hay hình chữ nhật thì tâm nhà là giao điểm của 2 đường chéo.
Đối với những nhà có hình tam giác, lục giác, hình thang... thì cách tính tâm nhà cũng là cách tính tâm những hình này trong các lớp toán tiểu học. Còn đối với những nhà có nhiều góc cạnh không đồng đều thì việc định tâm nhà tương đối khó khăn hơn. Phương pháp đơn giản nhất để tìm tâm của những căn nhà này (và ngay cả những nhà hình tam giác, lục giác...) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ô vuông theo đúng tỉ lệ kích thước của căn nhà, rồi in hình đó sang 1 tấm bìa cứng. Sau đó cắt hết những phần thừa của tấm bìa cứng đi, chỉ để lại phần sơ đồ căn nhà mà thôi. Rồi lấy 1 vật nhọn (như đầu viết chì, viết big...) để nâng tấm bìa cứng có hình sơ đồ căn nhà lên. Tới lúc nó có thể nằm thăng bằng trên đầu cây viết thì điểm đó chính là tâm của căn nhà. Dùng bút chì để đánh dấu điểm đó, xong bạn vẽ 2 đường thẳng đi ngang qua điểm đó: 1 đường thẳng góc với 2 bên hông nhà; 1 đường thẳng góc với 2 mặt trước, sau của căn nhà. Đường thẳng thứ 2 này sẽ là tọa và hướng của căn nhà. Từ đường thẳng này bạn có thể phân ra 8 hướng và 24 sơn chung quanh nhà để xác định chính xác vị trí của mọi thứ trong nhà trước khi luận đoán cát, hung, hay tìm cách sửa đổi Phong thủy cho căn nhà đó.
3- Vẽ sơ đồ nhà:
Trước hết ta cần có giấy trắng kẻ ô vuông và một cây thước đo. Ta đo chiều dài, chiều rộng của căn nhà là bao nhiêu mét (hay feet), rồi tùy theo nhà lớn hay nhỏ mà tính theo tỷ lệ cứ 1mét hay 1 feet = 1 ô hay 2 ô trên giấy. Kế đến, ta vẽ cách bố trí cuả căn nhà, như cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phòng khách, phòng ăn, bếp, phòng ngủ, phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của 4 bức tường. Dĩ nhiên là phải đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi vẽ, ví dụ nếu ta muốn vẽ vị trí bếp thì phải đo xem nó cách bức tường phía trước (hay phía sau) khoảng bao nhiêu. Và cách bức tường bên phải (hoặc bên trái) khoảng bao nhiêu. Rồi nó lớn khoảng bao nhiêu. Và nhìn về bức tường nào?...
Sau đó, ta áp dụng cách tìm tâm nhà như đã nói ở trên để xác định tâm nhà trên sơ đồ vừa vẽ xong. Kết hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã nói ở bài trước) ta sẻ xác định được 8 hướng trên sơ đồ nhà. Như vậy là ta có được một sơ đồ nhà hoàn chỉnh.
Nếu các bạn dùng phần mềm AUTOCAD để vẽ và định tâm nhà thì sẽ cho chính xác khá cao.
__________________
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Ý nghĩa của các cặp Sơn – Hướng tinh
1. Nhất Bạch
Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp
Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc
Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu
Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở
Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con cái chết yểu
Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn, con thứ chết yểu
Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại
Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi phải mang thương tật
Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non
Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp
2. Nhị Hắc
Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên
Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận
Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại
Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là "đâu ngưu sát" nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt
Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn
Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính
Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn
Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém
Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu
Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa
3. Tam Bích
Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp
Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân.
Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở
Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội.
Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn
Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.
Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.
Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là "Xuyên Tâm Sát", thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu
Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng
Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn.
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
4. Tứ Lục
Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt
Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu.
Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni.
Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân
Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình
Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.
Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng "Dịch Mã", nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.
Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa
Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.
Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia sản lụn bại
5. Ngũ Hoàng
Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm
Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn thường bị các bệnh về tai, hắc lào . Người nhà bệnh hoạn luôn
Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ
Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm
Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại
Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người
Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất
Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa riều
Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm
Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới cấp tính
6. Lục Bạch
Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ
Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai nạn sông nước.
Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột
Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc.
Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt
Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy
Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường.
Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng
Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương.
Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
7. Thất Xích
Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc .
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn . Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như:
a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng
Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản
Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.
Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.
Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu
Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa
Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt
Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai
Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật
Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai
8. Bát Bạch
Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối.
Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người
Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày
Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn núi rừng
Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn
Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương.
Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất.
Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh nhức xương đau vai
Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn.
9. Cửu Tử
Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, bệnh mắt, hoặc sinh đẻ khó
Cửu gặp Nhất là khắc nhập. Nếu vượng thì trong nhà có nhiều việc vui mừng, âm dương chính phối, thủy hỏa có đủ, vợ sinh nhiều con trai, giàu sang đến đột ngột. Nếu suy thì con cháu dòng giữa lụn bại, có bệnh ở mắt và tai. Nếu kèm theo Thất Xích bay đến thì e rằng có hỏa tai
Cửu gặp Nhị là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, mẫu thân quản lý gia sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, tran viên bị hỏa hoạn, dạ dày nóng nên đại tiện ra máu, dễ có bệnh đường ruột hoặc bệnh mắt.
Cửu gặp Tam sinh nhập. Nếu vượng thì đèn luôn rực sáng sảnh đường, quyền cao chức trọng, uy chất bốn phương, con cháu thông minh đắc chí. Nếu suy thì e rằng có kiếp nạn vì dâm loạn, có hỏa hoạn. Đàn ông hung ác, bại hoại thanh danh. Người nhà dễ bị bệnh mắc, hoặc bị thương tật ở chân
Cửu gặp Tứ sinh nhập. Nếu vượng thì sảnh đường rực sáng, chồng vẻ vang danh tiếng, vợ sang quý đẹp đẽ, con cháu thông minh, tài văn chương nổi bật, có nhiều hoạnh tài, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì nam nữ dâm loạn, danh tàn thân bại, sự nghiệp tiêu tan, thường bị bệnh mă*'c hay lưng eo. Con cháu hoang đàng bừa bãi
Cửu gặp Ngũ là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về địa sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, con có tổn thương về mắt. Nếu Loan Đầu bên ngoài có ngọn núi trọc vi bị tàn phá thì con cháu thi cử khó đỗ đạt; trong nhà có người bị tật hay mù lòa, hoặc vì sắc dục mà mắc bệnh giang mai, nhọt độc.
Cửu gặp Lục khắc xuất. Nếu vượng thì văn chương hiển đạt. Thất Bát Cửu liền nhau là ứng nghiệm tám đời đều đó tài văn chương. Chủ nhân khỏe mạnh sống lâu, gia đạo an khang. Nếu suy thì lửa thiêu đốt thiên môn, trong nhà sinh ra nghịch tử, hoặc con cháu bỏ nhà ra đi. Hỏa khắc kim (phế thuộc kim) nên dễ bị thổ huyết, hoặc bệnh lao.
Cửu gặp Thất khắc xuất. Nếu vượng thì nam nữ thông minh lanh lợi, tiền của hoạnh tài đến tay. Nếu suy thì nam nữ nghiện ngập; vì ham mê tử sắc hoặc bị hỏa hoạn mà tài sản tiêu tán, nhà có người mắc bệnh lao. Cửu Thất là hỏa của Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái, cho nên chủ về hỏa hoạn và củng là quan tai.
Cửu gặp Bát là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, văn chức thăng tiến, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì hỏa viêm thổ táo, sinh con ngu đần. Nhà có người bị tật mắt hoặc mắc bệnh đau bao tử
Cửu gặp Cửu là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài văn chương hiển hách, nổi tiếng khắp nơi, gia cảnh rực rỡ, đinh tài phát đột ngột. Nếu suy thì sinh nhiều con gái, nam nữ hiếu sắc. Trong nhà có người bị tật ở mắc hoặc mù lòa . Trong nhà dễ có người bị bệnh bạch đới cấp tính.
(trích từ Thẩm thị Huyền Không học)
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Thu sơn xuất sát
Ở một cung. Nếu sao hướng là vượng khí hoặc sinh khí lại đắc cách tức là loan đầu có thủy hay đường đi, trong khí đó sao sơn là tử khí thì trường hợp này gọi là “thu sơn” vì sao hướng vượng đã làm mất đi tử khí của sơn tinh. Nếu sao sơn là vượng khí hay sinh khí lại đắc cách tức loan đầu có núi cao hay nhà cao cây cao, trong khi đó hướng tinh là tử khí thì trường hợp này gọi là “xuất sát” hay còn gọi là “thoát sát” vì sơn tinh vượng đã làm mất đi tử khí của hướng tinh.
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Lập trạch và sự thành bại
Khi chuẩn bị xây dựng một căn nhà mới hoặc chuẩn bị vào ở một căn nhà mới chúng ta cần phải coi cho kỹ trước khi quyết định. Vì nhiều khi coi không kỹ đến khi vào ở thì những chuyện không may sảy đến, lúc đó muốn sửa chữa thì thật là nan giải. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng trường hợp tạo nên cát, hung cho một căn nhà.
Vận
Trước hết xin nói rõ hơn về vận khí từng giai đoạn
Theo Huyền Không Phi Tinh thì có 3 Nguyên (gốm THƯỢNG NGUYÊN, TRUNG NGUYÊN và HẠ NGUYÊN), mỗi nguyên có 3 vận (tất cả là 9 VẬN), mỗi vận là 20 năm. Thí dụ: Chúng ta đang ở vận 8 từ năm 2004 đến 2023. Vì sự dịch chuyển của thời gian có sai số nên thời gian tính mổi vận vào thời đại chúng ta có sớm hơm một chút (khoảng nửa năm), như vậy nửa cuối năm 2003 được tính là thuộc vận 8 và tinh bàn sẽ lập theo vận 8.
Thời gian tính để lập tinh bàn :
_ Được tính khi người bắt đầu vào ở ( ăn, ngủ, đốt bếp,…). Không tính giai đoạn làm nhà
_ Khi đổi vận: đỡ mái lợp lại để cho ánh nắng chiếu xuống tới nền nhà đối với nhà trệt, sửa chữa trên 30% căn nhà hoặc thay đổi hình thể căn nhà như: nhà dạng Kim thay thành dạng thổ,…Đi xa khỏi nhà trên 2 tháng hoặc nhà bỏ trống nhà trên 1 tháng
Sinh Vượng Suy Tử :
Số bằng với số đương vận thì gọi là vượng khí, hơn một gọi là sinh khí, hơn hai gọi là tiến khí. Số đương vận trừ một gọi là thoái khí, trừ hai và các số còn lại gọi là tử khí
_ TIẾN KHÍ: Số tốt nhưng còn rất xa nên lực không mạnh.
_ SINH KHÍ: Số tốt cần phát huy tuy còn hơi xa.
_ VƯỢNG KHÍ: Số cực tốt, nó chi phối tất cả. Nhà có cửa được vượng khí thì ba cái tẹp nhẹp nhiều khi không cần tính đến, chỉ khi nào qua vận kế nó trở thành thoái khí thì mấy anh chị kia mới trỗi dậy mà sinh nhiều vấn đề
_ THOÁI KHÍ: năng lực đã suy thoái trở nên xấu nhưng tác hại chưa mạnh lắm trừ ba sao 2, 5, 7
_ TỬ KHÍ: Số rất xấu cần phải né tránh
Hình thế bên ngoài và Sinh Vượng Suy Tử
_ Hướng tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy thuỷ, trống thoáng hay đường đi(gọi là hướng tinh đắc cách). Nếu khu vực này lại có núi, đồi , nhà cao hoặc cây cao thì lại trở thành Suy, Tử(gọi là hướng tinh thất cách). Sao hướng tinh suy tử gặp thuỷ càng suy thêm
_ Sơn tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao( gọi là sơn tinh đắc cách). Nếu khu vực này lại có ao hồ, trống thoáng hay đường đi thì trở thành Suy, Tử (gọi là sơn tinh thất cách). Sao sơn tinh là suy tử gặp núi( đồi hoặc nhà cao, cây cao) lại càng suy thêm
“Sơn quản nhân đinh, thuỷ quản tài”
Nếu sơn tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì nhà có nhiều người hoặc thêm người, người nhà khoẻ mạnh ít bệnh tật. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì nhà thưa vắng hoặc bệnh tật
Nếu hướng tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì tiền bạc dồi dào. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì tiền bạc eo hẹp.
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Đại không vong
Trên la bàn phân chia làm 8 hướng mỗi hướng 45 độ tuyến vị nằm ngay vị thế phân chia giữa 2 hướng gọi là đại không vong
Như vậy, có 8 tuyến Đại không vong trên la bàn như sau:
- Tuyến 22 độ 5 (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).
- Tuyến 67 độ 5 (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).
- Tuyến 112 độ 5 (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).
- Tuyến 157 độ 5 (giữa ĐÔNG NAM và NAM).
- Tuyến 202 độ 5 (giữa NAM và TÂY NAM).
- Tuyến 247 độ 5 (giữa TÂY NAM và TÂY).
- Tuyến 292 độ 5 (giữa TÂY và TÂY BẮC).
- Tuyến 337 độ 5 (giữa TÂY BẮC và BẮC).
Ngoài 8 tuyến vị kể trên (được coi là 8 tuyến Đại không vong chính), còn có những tuyến nằm gần sát và 2 bên những tuyến đó trong khoảng 1,5 độ cũng đều được coi là những tuyến Đại không vong cả.
Những nhà thuộc tuyến Đại không vong đều bị coi là “LẠC QUẺ” hay “XUẤT QUÁI” (tức ra ngoài phạm vi 1 hướng) bởi vì tạp khí hỗn loạn,
Khi lập tinh bàn cho nhà đại không vong ta lập 2 tinh bàn chồng nên nhau, cho nên khí của 2 quẻ pha tạp tạo nên sự hỗn loạn. Những căn nhà này dể có nhiều tai họa nghiêm trọng như bị tà khí chi phối, bị ma quỷ quấy phá, cũng như con người trở nên hẹp hòi, thô lậu, bần tiện, gian trá hơn. Nhà đại không vong có nhiều tai hoạ mà dẫn tới chủ nhà phải ra đi biến căn nhà thành nhà hoang.
Tiểu không vong
Mỗi hướng lại có ba sơn (hướng), mỗi sơn chiếm 15 độ vị chi là 24 sơn trên la bàn
Các tuyến tiểu không vong là:
- Hướng BẮC: gồm những tuyến: 352 độ 5, 7 độ 5, và 22 độ 5.
- Hướng ĐÔNG BẮC: những tuyến: 37 độ 5, 52 độ 5, và 67 đô 5.
- Hướng ĐÔNG: gồm những tuyến: 82 đô 5, 97 độ 5, và 112 độ 5.
- Hướng ĐÔNG NAM: những tuyến: 127 độ 5, 142 độ 5, và 157 độ 5.
- Hướng NAM: gồm những tuyến: 172 độ 5, 187 độ 5, và 202 độ 5.
- Hướng TÂY NAM: những tuyến: 217 độ 5, 232 độ 5, và 247 độ 5.
- Hướng TÂY: gồm những tuyến: 262 độ 5, 277 độ 5, và 292 độ 5.
- Hướng TÂY BẮC: những tuyến: 307 độ 5, 322 độ 5, và 337 độ 5.
Tuy nhiên, nếu để ý kỹ thì ta thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối cùng của mỗi hướng như 22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG... đó chính là những tuyến Đại không vong.
Nhà ở tuyến vị tiểu không vong thì âm dương lẫn lộn làm cho gia đạo không yên. Nhưng nếu để ý thì ta thấy nếu là Thiên nguyên long và Nhân nguyên long trong mỗi hướng đều cùng một khí Âm hoặc Dương cho nên những tuyến tiểu không vong này thực tế là vô hại. Chỉ khi phạm vào giữa địa nguyên long với hai nguyên long kia thì cần tránh kẻo mang hoạ.
Nhà gặp tuyến không vong nếu 2 tinh bàn chồng lên nhau lại được những cát tinh vào cùng một cung thì vẫn luận là tốt
Sau đây là một thí dụ điển hình trích trong TRẠCH VẬN TÂN ÁN
“VỢ; CHỒNG LỤC ĐỤC CHIA TAY”
Bên ngoài cửa Đại Nam, Thượng Hải, có nhà họ Thẩm, xây dựng ở vận 3, sáng sủa rộng rãi. Chỉ tiếc là có khe hở chạy dài giữa nhà theo hướng NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, phạm Không vong, chẳng thể ở lâu. Nếu ở lâu sẽ chuốc tai tiếng, vợ chồng lục đục dẫn tới bỏ nhau, cốt nhục chia lìa đau khổ.
(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập trạch vận thì đem những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay chuyển theo cả 2 chiều thuân-nghịch cho phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ có 2 Sơn tinh và 2 Hướng tinh).
Nhà này trong vận 3, khí khẩu đắc (các) Hướng tinh 8, 6, 1, 4 (nơi ngoại khí khẩu ở khu vực phía TÂY BẮC, và nội khí khẩu ở khu vực phía TÂY NAM), THANH DANH TỐT ĐẸP. Gian bếp (nơi khu vực phía ĐÔNG BẮC) có hướng thủ thiên tinh 1, 4 đến (tức nơi đó có 2 Hướng tinh 1 và 4). Nếu mở cửa sau ở gian này, CÓ THỂ NÓI LÀ ĐẠI CÁT. Tiếc rằng lại không mở, để Sơn tinh 2, 5 hoạt động (nên chủ hại cho nhân đinh). Năm 1926 BÍNH DẦN (lúc đó đã qua vận 4), Ngũ Hoàng chiếu vào bếp (vì năm đó 2 nhập trung cung, nên niên tinh 5 tới ĐÔNG BẮC), chủ vợ, chồng ốm nặng, lục đục, dẫn đến ly hôn. Hướng tuy gặp thoái khí Nhị Hắc phải tiêu nhiều tiền, nhưng có vượng khí Tam bích cùng đến (vì nhà hướng NAM, tại đây có cả 2 Hướng tinh 3, 2 cùng tới). Lại thêm nội khí khẩu Tứ lục là sinh khí cùng tới, nên tiền vào gấp đôi, khá tốt. Bước sang vận 4, cửa trước, cửa sau 2, 3 đều là khí suy thoái (cửa trước nơi phía NAM có 2 Hướng tinh 3, 2; cửa sau nơi phía BẮC có 2 hướng tinh 2, 3). May nhờ nội khí khẩu ở phía cổng Tứ lục (tức khu vực phía TÂY NAM) đến bổ trợ, nhưng vẫn khiến chủ nhà thu không bù chi, luôn lo lắng.
Sang vận 4, thường dùng cửa phía BẮC (nơi có đường xe điện ra vào). Đường dẫn khí tuy nông (vì cửa nằm ngay sát đường), nhưng dẫn khí sinh vượng nên còn được thuận lợi. Ít lâu sau, chủ nhà nằm mơ người vợ đã chết về báo mộng là ông sẽ ốm nặng, phải bỏ việc kinh doanh, khuyên ông nên dời đi nơi khác. Chẳng mấy chốc thấy ngay ứng nghiệm. Trong nhà lại thường thấy có chuột chết, là điềm gở. Năm ĐINH MÃO, sao Bệnh Phù (Nhị Hắc) chiếu tới bếp căn nhà phía TÂY (vì nhà này có 2 bếp, bếp này nằm tại khu vực phía TÂY BẮC của phòng này), nên 2 cha con họ Thẩm ốm nặng từ tháng 5 đến tháng 8. Hiện họ Thẩm đã chuyển đi nơi khác. Tiên sinh Thẩm điệt Dân (con trai của Thẩm trúc Nhưng) nhận xét:”Phàm hướng Không vong hay thấy ma quỷ”.
Ta thấy những vấn đề sau:
_ Nhà tuy phạm đại không vong nhưng vì cửa trong và ngoài đều được cát khí nên vẫn tốt đẹp cả về tài lộc lẫn thanh danh. Chỉ đến khi thất vận mới có tai hoạ mà thôi
_ Nhà này hướng không vong là có hoạ về nhân đinh(như vợ, chồng bỏ nhau, cốt nhục chia lìa...), nhưng chỉ đến lúc thất vận, hoặc bếp tọa tại những khu vực có Sơn tinh là khí suy, tử thì họa về nhân đinh mới có.
_ Ngoài ra nhà phạm Đại không vong nếu được thành môn đắc cách thì vẫn vượng phát một thời. Nhưng khi thành môn hết tác dụng tai họa đến liền kề
_ Nếu cửa chính ra vào nhà bị phạm đại không vong hoặc tiểu không vong cũng là đại kỵ vì mang tạp khí vào nhà.
_ Nếu mộ phần gặp Đại không vong hoặc Tiểu không vong (giữa Thiên và địa nguyên long) thì tai họa thật khủng khiếp cho con cháu đời sau.
Những thí dụ cho việc này tôi sẽ trình bày trong phần "Huyền không nghiệm chứng"
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Chính sơn chính hướng
Tuyến chính hướng là đường thẳng góc đè lên chính giữa chữ nào đó. Lập chính sơn chính hướng mục đích là để chọn khí của quẻ sơn và hướng được thuần khiết, không pha tạp. Lập tuyến kiêm hướng là lệch sang trái hay sang phải để kiêm trái hoặc kiêm phải. Nếu lệch đến một độ số nhất định (theo lý thuyết là từ 3 độ trở lên) thì không còn là quẻ thuần nữa, khi ấy xuất hiện kiêm quái hay kiêm hướng. Nếu lệch ra khỏi quẻ sẽ phạm sai lầm “hướng xuất quái”. Nếu lệch bên trong sẽ phạm sai lầm khí âm dương lẫn lộn. Tuyến không thể lập trạch, nói đơn giản là các tuyến phạm đại không vong và tiểu không vong. Phạm đại không vong chủ về đại hung, hao người tốn của rất nặng. Phạm tiểu không vong thì dẫn đến hung sát, làm ngưới không yên, gia đạo bất ổn. Phạm ngũ hành lẫn lộn dẫn đến khí sát, có thể hao tổn tiền tài, người nhà ốm đau.
Phương pháp lập tuyến đúng phép gọi là “hợp tuyến pháp” nghĩa là không những phải hợp lý với tinh bàn, mà còn phải phù hợp với hình thế bên ngoài. Nếu vì hoàn cảnh bắt buộc phải lập trạch mà xuất hiện kiêm hướng thì phải dùng phương pháp quẻ thế để lý khí và hình thế phù hợp với nhau. Nếu hoàn cảnh địa hình rơi vào vị trí “không vong” thì đành bỏ cuộc đất ấy, không dùng kẻo mang hoạ.
Huyền không phong thuỷ rất coi trọng vấn đề thuần khí.xem nó như là yếu tố đầu tiên quyết định họa phúc, sang hèn của một căn nhà. Như nhà kiêm hướng khi lập tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng, cho dù được vậy thì vượng mà không vượng vì khí đã pha tạp. Khi an cổng cửa củng phải lưu ý đến vấn đề thuần khí. Xin được nhắc lại:
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU
NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ
ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Ngoài vấn đề thuần khí âm dương Khi an cổng, ngõ lại còn phải áp dụng phép phân kim sẽ được trình bày ở những hồi sau
Phân kim
Cuối đời Thanh, Thẩm trúc Nhưng tiên sinh, ngưới Tiền Đường là một phong thủy gia lỗi lạc cả về Bát Trạch lẫn Huyền Không đã đính chính lại cách phân kim của Tưởng bàn. Mỗi sơn giữ 5 vị trí, mỗi vị trí chiếm 3 độ.
Phương pháp phân kim cụ thể như sau:
_ Sơn Tý có: Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Quí có : Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Sửu có: Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Cấn có : Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Dần có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần (thuỷ)
_ Sơn Giáp có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần (thuỷ)
_ Sơn Mão có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Ất có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Thìn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính Thìn (thổ)
_ Sơn Tốn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính Thìn (thổ)
_ Sơn Tỵ có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Bính có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Ngọ có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ (hoả)
_ Sơn Đinh có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ (hoả)
_ Sơn Mùi có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Khôn có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Thân có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh Thân (mộc)
_ Sơn Canh có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh Thân (mộc)
_ Sơn Dậu có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tân có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tuất có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất (thuỷ)
_ Sơn Kiền có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất (thuỷ)
_ Sơn Hợi có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
_ Sơn Nhâm có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
Nguyên tắc sử dụng phân kim là ở chỗ vượng thì tiết giảm, suy thì bổ cứu, tránh hung theo cát, tức tránh tương khắc (nếu khắc xuất là tiết), theo cát (sinh nhập, ngang hoà là cát, sinh xuất là tiết). Tóm lại là phải vận dụng linh hoạt.
Thí dụ : Vận 8 sơn càn hướng tốn.
Địa bàn chính châm của sơn Càn có : Giáp Tuất hoả, Bính Tuất thổ, Mậu Tuất mộc, Canh Tuất kim, Nhâm Tuất thuỷ. Nay vận 8 , Bát là quẻ Cấn thuộc thổ: lấy năm hạng mục nạp âm ngũ hành phân kim trên để luận sinh khắc thì :
_ Giáp Tuất hoả, tức hoả sinh thổ, khí của thể được sinh nhiều nên luận là cát lợi.
_ Bính Tuất thổ, tức tỵ hoà nên luận cát lợi.
_ Mậu Tuất mộc, tức mộc khắc thổ, khí của thể bị khắc, sát khí quá nặng nên luận hung.
_ Canh Tuất kim, tức thổ sanh kim, khí của thể bị tiết quá nhiều nên luận không cát lợi.
_ Nhâm Tuất thuỷ, tức thổ khắc thuỷ, khí của thể cũng bị hao tổn
_ Lại coi nạp âm của ngày tháng năm nhập trạch xem sinh khắc thế nào với phân kim thì mới gọi là hoàn hảo
Ngoài ra cần lưu ý đến làn ranh phân kim, nếu phạm sẽ dẫn đến ngũ hành lẫn lộn mà có nhiều hung sát
BẢNG TỔNG HỢP của Bác KÉP NHỰT
1_ Trong vòng tròn có 24 sơn: màu đỏ là dương, màu đen là âm.
2_ Trong vòng tròn chia thành 120 phân kim và vòng tròn có 8 hướng: màu đỏ là hoả, vàng là thổ, đen (vì màu trắng không viềt được) là kim, màu xanh dương là thuỷ, màu xanh lá cây là mộc
4
Phục ngâm, phản ngâm
Chúng ta đã biết mỗi cung hướng đều đi liền với một số của cửu tinh như: 2, 5, 8 là cung khôn, cung cấn. 3, 7 là cung chấn cung đoài. 4, 6 là cung tốn, cung càn. 1, 9 là cung khảm cung ly. Khi lập tinh bàn mà gặp trường hợp phi tinh của sơn hoặc hướng là ngũ hoàng nhập trung cung, nếu bay thuận thì số của phi tinh giống số của địa bàn đó là bị phục ngâm, nếu đi nghịch thì số của phi tinh nằm ở cung đối diện với số của địa bàn đó là bị phản ngâm.
* Phục ngâm: tức là tăng năng lực vì cùng một số, lúc đó năng lực cửa cửu tinh là tốt hay xấu sẽ tăng lên gấp nhiều lần
* Phản ngâm: Tức là lực đối kháng lại, cũng làm năng lực của cửu tinh tăng lên gấp nhiều lần nhưng ở chiều ngược lại
- Nếu hướng tinh là vượng tinh mà lại bị Phản Ngâm hay Phục ngâm: trường hợp này không ngại, chỉ cần có thuỷ ở hướng (tức phương có vượng tinh) là vẫn có thể dùng được. Như trường hợp nhà Khôn hướng Cấn vận 8, nhà có hướng tinh 8 nằm ở phía TÂY NAM (tức phương toạ) tức là bị Phản ngâm. Nhưng trong vận 8, hướng tinh Bát bạch là vượng tinh, nếu đắc thuỷ thì vẫn tốt như thường. Tuy nhiên, nếu đến cuối vận 8 mà không tu sửa nhà hay dời chỗ ở thì lúc đó tai hoạ mới xảy ra. Ngược lại, nếu nhà có vượng tinh bị Phục ngâm, như trường hợp nhà toạ MÙI, hướng SỬU trong vận 8, nếu đầu hướng có cửa hay thuỷ cũng đều tốt như thường, dù biết rằng trong vận 8 mà có thuỷ ở phía ĐÔNG BẮC là bị Linh thần thuỷ, chủ phá tài.
- Trường hợp hướng tinh là khí suy, tử mà lại bị Phản, Phục ngâm: nếu trong những trường hợp này, hướng tinh bị Phản, Phục ngâm lại nằm chung với vượng tinh của sơn thì có thể dùng cách "dùng sơn để chế ngự thuỷ", tức là xây nhà cao, đắp đất. trồng cây cao tại nơi đó để "xuất sát" của thuỷ thần bị Phản, Phục ngâm. Ngược lại, nếu cả sơn và hướng tinh đều là khí suy tử thì 1 là tránh làm động chỗ đó. Nếu nơi đó là cửa ra vào thì nên dời cửa đi nơi khác. Nếu nơi đó là 1 khu vực của căn nhà thì tránh dùng làm phòng ăn, phòng ngủ, buồng tắm... chỉ có thể dùng làm nhà kho hoặc bỏ trống là tốt nhất. Nếu là phòng ngủ thì còn cần để ý xem phương vị của cửa phòng có nằm tại phương bị Phản, phục ngâm hay không? Nếu có thì cũng phải tránh. Còn cách thứ 2 là dùng phương pháp hoá giải tức là nếu sao bị Phản, Phục ngâm là hành Thổ thì dùng Kim hoá, nếu là hành Thuỷ thì dùng Mộc hoá... để làm giảm nhẹ mọi tai hoạ đi thôi.
- Nếu sơn tinh là vượng tinh mà lại bị Phản, Phục ngâm thì cũng không ngại. Nơi đó nếu có nhà cao hay cây cối, gò đống thì vẫn tốt cho vận đó, chỉ đến vận sau mới đáng ngại cho nhân đinh.
- Trường hợp Sơn tinh bị Phản, Phục ngâm: nếu sơn tinh nằm chung với vượng tinh của hướng ở cùng 1 cung thì dùng cách "đắc thuỷ để thu sơn" mà hoá giải. Nếu cả sơn tinh lẫn hướng tinh đều là khí suy tử thì cũng theo những cách đã nói ở phần trên mà hoá giải.
- Trường hợp Hướng tinh hoặc Sơn tinh toàn bàn phản hay phục ngâm (đây là trường hợp Ngũ hoàng nhập trung cung). Nếu nơi hướng tinh vượng có thủy và sơn tinh vượng có sơn thì có thể chế ngự được. Chỉ khi qua vận sau nếu không tu sửa lại thì tai họa mới đến.
Vượng sơn, vượng hướng
Sau khi đã đo lấy độ hướng, xác định căn nhà thuộc sơn_ hướng nào, ta lập tinh bàn cho căn nhà. Nhìn vào 9 cung hướng của tinh bàn, nơi nào có số sơn hoặc hướng trùng với số đương vận thì gọi là cung vượng. Nếu là số của sơn thì nơi ấy gọi là sơn vượng. Nếu là hướng thì nơi ấy gọi là hướng vượng. Nếu sơn vượng ở toạ và hướng vượng ở hướng thì nhà ấy được gọi là nhà vượng sơn vượng hướng.
Nhà được vượng sơn vượng hướng (còn gọi là đáo sơn đáo hướng hay cách cục châu bảo tuyến) lại thêm hình thế phù hợp, tức phía trước trống thoáng hoặc có đường đi, phía sau có núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao cộng thêm bố trí cổng cửa phù hợp thì vượng phát cả tài lộc lẫn nhân đinh.
“Thanh Nang Tự” viết: “Thức đắc âm dương huyền diệu lý, tri kỳ suy vượng sinh dữ tử. Bất vấn toạ sơn dữ thuỷ lai, thản phùng tử khí giai vô thủ”. Ý đoạn văn trên nói rằng: Phong thuỷ cần lấy vượng mà bỏ suy, phương vị có thể xu cát tỵ hung. Mà vượng sơn vượng hướng là “lấy vượng bỏ suy, đón sinh mà tránh sát”. Cho nên nhà cửa mà được vượng sơn vượng hướng thì không những có ích cho tài vận, sự nghiệp, mà còn có thể thúc đẩy sự hưng vượng về người, như đang hiếm muộn vào nhà này sẽ có con, nhà doanh nghiệp có nhiều cộng sự giỏi, …
Các nhà được vượng sơn vượng hướng trong các vận:
1-) Vận 1: Không có
2-) Vận 2: Có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
3-) Vận 3: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
4-) Vận 4: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
5-) Vận 5: Có 12 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
_ Toạ Ngọ hướng Tý. Hướng nhà ở 357 đến 3 độ
_ Toạ Tý hướng Ngọ. Hướng nhà ở 177 đến 183 độ
_ Toạ Đinh hướng Quí. Hướng nhà ở 192 đến 198 độ
_ Toạ Quí hướng Đinh. Hướng nhà ở 192 đến 198 đô
_ Toạ Mùi hướng Sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ
6-) Vận 6: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
7-) Vận 7: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
8-) Vận 8: có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
9-) Vận 9: Không có
Điều cần chú ý là vượng sơn vượng hướng chỉ tốt Cho những nhà nằm trong độ số trên, còn những nhà kiêm hướng dùng tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng thì tuy thấy vượng mà không vượng.
Nhà vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong thời gian của vận đó mà thôi. Khi qua vận kế thì sao đương vận của vận này trở thành thoái khí của vận sau tức thành khí xấu, năng lực suy giảm nên cung toạ và hướng của nhà trở thành xấu. Đến vận sau nữa thì các cung này lại càng xấu hơn nữa…Do đó vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong đương vận mà thôi, tức là chỉ tốt nhiều nhất là 20 năm. Điều này giải thích vì sao một nhà đang làm ăn phát đạt bỗng trở nên suy tàn và càng ngày càng lụn bại.
Song tinh đáo hướng
Song tinh đáo hướng là một cách cục đặc biệt của vượng sơn vượng hướng. Nhà có song tinh đáo hướng và cặp sơn hướng này là số của đương vận. Nếu phía trước trống thoáng hoặc có đường đi hay có thủy thì đây là cách “ thu sơn” mà thành “vượng sơn, vượng hướng”, tốt đẹp một thời.
Thướng sơn Há thuỷ
Tương phản với vượng sơn vượng hướng là thướng sơn há thuỷ, còn gọi là “Hoả khanh tuyến” tức sơn tinh vượng tới hướng, hướng tinh vượng tới toạ. Theo phái Huyền Không, phàm toạ hướng của trạch phạm vào cách cục “thướng sơn há thuỷ”, tức Thủy thần lên núi, Sơn thần xuống nước thì nhân đinh và tài lộc đều lụn bại.
Trong vận 8 này 6 cách cục phạm thướng sơn há thuỷ là:
_ Toạ Thìn hướng Tuất
_ Toạ Tuất hướng Thìn
_ Toạ Khôn hướng Cấn
_ Toạ Cấn hướng Khôn
_ Toạ Thân hướng Dần
_ Toạ Dần hướng Thân
Biện Pháp để hoá giải Thướng sơn há thuỷ là dùng phép “đảo kỵ long”, tức là phía sau phải có thuỷ, trống thoáng hoặc có đường đi, Phía trước có núi, đồi, nhà cao hay cây cao. Lúc đó lại vượng phát như nhà vượng sơn vượng hướng
Ngoài cách cục thướng sơn há Thủy còn cách cục song tinh đáo tọa là “vượng đinh, thoái tài”. Cách này cần có thủy hoặc đường đi và núi hay nhà cao cây cao ở phía sau thì mới hóa giải được
Phong thủy bắt đầu từ hình thế rồi sau phát triển tới lý khí, rồi sau nữa là thời vận. Theo Phái Loan đầu thì nhà cửa hay mộ phần đều cần có núi che chở như : Thanh Long, Bạch Hổ hai bên, sau có huyền vũ che chắn, Trước có minh đường trống thoáng để tụ khí. Nhưng Với Huyền không khi lập trạch cần quan sát sao cho nơi có vượng, sinh khí của Hướng thì trống thoáng. Chỗ có sinh, vượng khí của sơn thì cần có núi hay nhà cao cây cao. Phối hợp hình thế với phi tinh, Sinh Vượng tinh của hướng gặp Thủy, sinh vượng tinh của sơn gặp núi là đã được một thời hưng vượng.
Để biết thế nào là sinh vượng khí, ta lấy sao đương vận làm chuẩn
- Trước 1 số là sinh khí
- Trước 2 số là tiến khí
- Sau 1 số là thoái khí
- Sau 2 số là tử khí.
Thí dụ: Ta đương vận 8 thì:
- 8 là vượng khí
- 9 là sinh khí
- 1 là tiến khí
- 7 là thoái khí
- 6, 5, 4, 3, 2 là tử khí
Phối hợp phi tinh với loan đầu bên ngoài:
Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài. Tức là khi xét vượng hay suy thì hướng tinh nói về tiền tài bên ngoài tới còn sơn tinh nói về người trong nhà.
Hướng tinh:
- Sinh vượng khí: gặp thủy thì vượng, gặp núi thì suy.
- Tử khí: Gặp thủy càng suy thêm. Gặp núi thì xét thêm sơn tinh.
Sơn tinh:
- Sinh vượng khí: gặp núi thì vượng, gặp thủy thì suy.
- Tử khí: gặp núi thì càng suy thêm. Gặp thủy thì xét hướng tinh.
Nếu hướng tinh là tử khí gắp núi, đồi hay nhà cao. Nhưng nếu đi liền với nó là sơn tinh sinh vượng khí thì sơn tinh sẽ “thoát sát” mà cho hướng tinh thành tốt.
Nếu sơn tinh là tử khí gặp nơi trống thoáng, có thủy hay đường đi. Nhưng nếu liền với nó là sơn tinh vượng khí thì đây là cách "thu sơn" và làm cho sơn tinh trở lên tốt đẹp.
Nếu hướng tinh và sơn tinh đều là suy tử khí thì nơi đây cần trống thoáng và không có cửa ra vào nhà.
Cho nên theo Huyền không khi nhà đã phối được phi tinh với loan đầu. Những nhà đạt được cách cục như vậy thì tài sản hưng vượng, con cháu đông đúc, gia nhân trung thành, nhân tài xuất hiện,...Đây gọi là cách "Châu bảo tuyến" tức là tuyến lập trạch quí như gặp châu báu vậy.
Lệnh tinh nhập tù
Nhập tù:
Theo Khương Diêu (đệ tử của Tưởng đại Hồng) thì khi Sao đương vận ở trung cung tức là bị tù thì tai họa khủng khiếp còn hơn cả “thướng sơn, há thủy”. Cho ta thấy khi lệnh tinh (sao đương vận) nhập tù thì gây nhiều tổn thất về nhân mạng cũng như tài lộc. Khi vượng khí vủa sơn tinh hoặc hướng tinh nhập trung cung thì nó bị bao vây tứ phía mà không thể phát huy được năng lực của nó. Khi đó các tử khí mới được dịp tung hoành.
Lệnh tinh (tức là sao đương vận) của hướng nhập Trung-cung thì suy bại, về tài lộc
Lệnh tinh của sơn nhập trung cung thì suy bại về nhân đinh
Như vận 7: hướng Càn, vận tinh bát đáo hướng (số của Vận ở cung hướng
Tây-bắc là 8) như vậy 8 nhập Hướng ở Trung-cung. Ðến vận 8 thì lệnh tinh là 8 nên số của hướng ở Trung-cung là 8 tức bị tù
Nếu hướng nguyên thủy của sao tù như: dương trạch (nhà cửa) có cửa và đường xá hay của âm trạch (mồ mả) có thủy thì không bị tù. Thí dụ nhà toạ tốn hướng càn vận 8 có sao 9 nhập trung cung, qua vận 9 là bị tù, nhưng ở hướng nam (sao nguyên thủy là 9) có hướng tinh 5 mà có thuỷ thì không bị tù.
Trường hợp vận 5, Ngũ hoàng nhập Trung-cung thì cũng không là tù.
Như vậy, nếu có thủy ở phương có Hướng có Ngũ-hoàng thì có thể hóa giải được tù.
Trong Thẩm thị Huyền không học có đề cập đến những trường hợp vượng tinh nhập tù như sau:
1/ Thẩm trúc Nhưng khi nói về vượng tinh nhập tù có đưa thí dụ là nhà toạ THÌN, hướng TUẤT, vận 1 nhập trạch thì hướng tinh 2 nhập trung cung bay nghịch, nên hướng tinh 1 tới hướng là đắc vượng khí. Nhưng qua vận 2 thì hướng tinh nhập tù. Ông có đưa ra cách giải là mở cửa hay có thuỷ ở phía TÂY NAM căn nhà. Theo tinh bàn thì hướng TÂY NAM có hướng tinh 5. Hướng TÂY NAM cũng là hướng nguyên thuỷ của 2
2/ Trong Tòng sư tuỳ bút, Khương Diêu cũng đưa ra trường hợp phạm hướng tinh nhập tù nhưng nhà đó vẫn tiếp tục phát. Khi hỏi Tuởng đại Hồng thì được trả lời là tuy hướng tinh nhập tù, nhưng ở hướng có thuỷ nên tù mà không tù, nên không được tính là nhập tù nữa.
3/ Trong phần giải đoán của Chương trọng Sơn có nói đến trường hợp 1 ngôi mộ bị song tinh (sơn và hướng) Nhất bạch chiếu tới, mà phương toạ có hướng tinh Bát bạch, nên vào vận 8 là nhập tù. Tức là trường hợp mà hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến, thì hướng tinh ở phương toạ là số gì thì đến vận đó sẽ tự động bị nhập tù. Nhưng trong trường hợp này Chương trọng Sơn cũng nói là trạch vận rất lâu dài, quá tam nguyên cửu vận, nên trong trường hợp này thì Thẩm trúc Nhưng và Vương tắc Tiên đều chú giải là vì nơi phía sau ngôi mộ có hồ nước lớn phóng quang, nên tuy vượng tinh bị tù mà không phải tù, vẫn thoát ra được mà làm cho gia đình này vẫn tiếp tục phát đạt chứ vận khí không chỉ dừng ngay tại đó.
Thí dụ nhà tọa Nhâm hướng Bính. , vận 7 có song tinh đáo hướng. cung đối diện có sơn tinh 8. qua vận 8 thì nhập tù. Nếu có cây cao hay nhà cao thì có thể hóa giải được, bằng không thì có họa về nhân đinh
- Vấn đề mở cửa hoặc có sông nước ở phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng: Đây là điều dễ hiểu lầm ý của Thẩm trúc Nhưng. Đúng ra là ông ta dùng phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng để phá tù tinh. Nhưng điều này chỉ có thể dùng cho âm trạch (mồ mả) mà thôi. Tức là nếu là âm trạch mà ở hướng có sao Ngũ Hoàng, lại thêm có thuỷ ở đó tức là vận khí của ngôi mộ đó sẽ lâu dài, tới vận có hướng tinh nhập tù cũng vẫn phát chứ không bị suy tàn. Nếu ở đầu hướng không có vận tinh Ngũ Hoàng, nhưng ở 1 phía nào đó có nó, mà nếu khu vực đó lại có thuỷ lớn thì cũng hoá giải được vấn đề vượng tinh nhập tù. Nhưng dù trong trường hợp nào thì chung quanh mộ huyệt đó cũng phải thật trống thoáng, nhất là khu vực có hướng tinh Ngũ Hoàng thì phải cần có đại thuỷ hoặc thuỷ tam thoa (chỗ giao hội của 2 nhánh sông) thì mới có thể hoá giải được. Nói tới đây thì lại vướng mắc tới vần đề đã nêu ra là sao Ngũ Hoàng là sát tinh chuyên gây tai hoạ, nếu nơi nó chiếu tới mà còn có thuỷ thì hoạ lại càng khốc liệt, chứ làm sao có thể tốt được (ngoại trừ tới các vận 4, 5 mà thôi)? Tuy nhiên nếu đọc Trạch vận tân án trong phần nói về sao Ngũ Hoàng có viết "Ngũ Hoàng tuy là hung thần, nhưng nếu chiếu tới âm trạch (mộ phần) thì lại là phúc thần, vượng thần, cực kỳ tốt đẹp". Cho nên mồ mả có Ngũ hoàng chiếu tới đầu hướng, hoặc khu vực nào mà nó chiều tới có thuỷ là điều tốt, chủ trạch vận lâu dài không sợ nhập tù. Nhưng trên thực tế nhận thấy mồ mả có Ngũ Hoàng chiếu tới cũng chỉ tốt đẹp trong các vận 4-5 và những vận có vượng tinh nhập tù. Còn những vận khác thì vẫn đòi hỏi phải có thuỷ ở phương vị của vượng tinh thì con, cháu trong vận đó mới phát đạt được. Chứ không phải là mồ mả có Ngũ Hoàng chiếu tới đầu hướng là sẽ đại phát hết trong tam nguyên, cửu vận được.
_ Đối với dương trạch thì Ngũ Hoàng là sát thủ số 1, nên khu vực mà nó chiếu tới không thể có cửa hay sông nước (ngoại trừ trường hợp trong vận 5, tức lúc đó Ngũ Hoàng là vượng khí thì lại tốt). Nếu có dĩ nhiên là nhà đó sẽ bị hung hoạ liên miên. Chỉ có 1 trường hợp ngoại lệ là khi nhà đó gặp vận có hướng tinh nhập tù thì lúc đó mới nên mở cửa tại phương vị có Ngũ Hoàng để phá tù tinh, nhưng cũng phải với điều kiện là chung quanh nhà và nhất là khu vực có Ngũ Hoàng phải thật rộng rãi, trống thoáng thì mới có hiệu lực. Còn trong các vận khác thì phương này phải yên tĩnh chứ không thể động. Như vậy đối với dương trạch khi tới vận có lệnh tinh nhập tù thì mới mở cửa tại phương vị có hướng tinh ngũ hoàng để giải tù tinh, vì lệnh tinh bị bao vây không lối thoát nay dùng khí đồng nguyên tức là phương vị nguyên thuỷ của nó mà giải nó
_Lại nữa, đối với những nhà có bất kỳ hướng tinh gì nhập trung cung thì đối tượng mà sao đó biểu tượng cũng đều có vấn đề, bệnh tật, tai hoạ dễ bị thương tật , hư hỏng, ăn chơi phá phách hoặc không làm gì được ra trò. Nhưng nếu phương vị nguyên thuỷ của sao đó mà có cửa hay ngã ba, ngã tư hoặc có thuỷ thì đối tượng đó tuy vẫn có tai hoạ nhưng sẽ đỡ hơn nhiều. Nhưng phương này lại là phương có hướng tinh ngũ hoàng nên không dùng cách này được. Cách này chỉ dùng khi đền vận đó mà thôi.Lấy thí dụ như nhà toạ NHÂM hướng BÍNH, trong vận 7 thì hướng tinh số 2 nhập trung cung. Mà số 2 là biểu tượng của người mẹ, người vợ, nên những gia đình này thường gặp tai hoạ xảy đến cho người vợ, người mẹ. Nếu như phía TÂY NAM (là phương vị nguyên thuỷ của số 2) của những nhà này có thuỷ hay cửa hoặc ngã 3, ngã tư thì mức độ tai hoạ lại giảm đi. Một cách giải khác là coi cung có sơn tinh 2 (trong trường hợp này) xem có bị xung khắc để tìm cách chế hoá đi. Như trong thí dụ này thí cung TỐN có sơn-vận-hướng là 2-6-3. Sơn tinh 2 (thổ) khắc 3(mộc) lại ở trong cung TỐN cũng thuộc mộc nay lại còn sanh cho 6(kim) nên rất suy yếu. Ta dùng màu đỏ (hoả) và màu xanh dương (thuỷ) mà sơn tường , làm gạch nền hoặc thảm cho khu vực này thì lúc đó mộc sanh hoả, hoả sanh thổ, thổ sanh kim, kim sanh thuỷ,….
Tóm lại
1) Vượng tinh nhập tù: Trung cung hướng tinh trùng với vận tinh của đương vận. Ví dụ sơn Tốn hướng Kiền vận 7, trung cung có hướng tinh 8. Qua vận 8, trạch vận này phạm tù tinh, tài lộc sẽ suy bại
2) Tọa hoặc hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến (song tinh đáo hướng hoặc song tinh đáo sơn), thì sơn hoặc hướng tinh ở phương toạ hoặc hướng đối diện là số gì thì đến vận đó sẽ tự động bị nhập tù.
3) Hướng tinh ở trung cung là tù tinh: Bất kể tinh bàn lập ở vận nào, hướng tinh của trung cung là tù tinh khiến cho đối tượng mà sao đó đại diện dể có nguy cơ bệnh tật, tai hoạ. Ví dụ toạ TÝ hướng NGỌ vận 7, trung cung có hướng tinh 2. Mà số 2 đại diện người mẹ, người vợ, nên những người này thường gặp tai hoạ như bị thương tật, tàn phế.
Tuy nhiên, tất cả các trường hợp trên có ngoại lệ đối với hướng tinh là Ngũ Hoàng. Bất kể là trường hợp nào, khi Ngũ Hoàng nhập trung cung đều không phạm tù tinh, vì Ngũ Hoàng ở Trung cung là địa vị chí tôn, là "hoàng cực" nên không bị tù.
Cách giải "Tù tinh" thì tùy trường hợp có khác nhau. Điều quan trọng là phải theo dõi và nghiệm chứng để điều chỉnh cách giải tù tinh thích hợp hơn.
4) Sơn tinh nhập tù là vượng tinh thì sẽ suy bại về nhân đinh. Người trong nhà sẽ bỏ đi hoặc gặp tai họa. Nhà thưa vắng người hoặc tuyệt tự.
Thành môn
Thành môn là cửa ngỏ vào khu đất hay khu nhà. Nhà tuy hướng xấu nhưng nếu thành môn có vượng khí thì vẫn tốt đẹp một thời.
Khi hai bên của đầu hướng có thuỷ(ao hồ…) hoặc cổng, ngõ vào thì gọi nhà đó có thành môn.
_ Thành môn chính : ở một hướng mà kết hợp với hướng chính(liền bên) thành một cặp số của hà đồ ( số tiên thiên: 1-6; 2-7; 3-8; 4-9) thì gọi là thành môn chính.
_ Thành môn phụ : Ở một hướng mà khi kết hợp với hướng chính(liền bên) không thuộc các cặp số hà đồ thì gọi là thành môn phụ
Thí dụ : Hướng chính là Bắc có số cửu tinh là 1. Hai hướng bên cạnh: đông bắc và tây bắc là thành môn. Trong đó tây bắc có số cửu tinh là 6 nên là thành môn chính, đông bắc có số cửu tinh là 8 nên là thành môn phụ.
_ Thành môn ngầm:
• Khi an vận bàn mà vận tinh 5 đến 1 trong hai hướng bên cạnh mà ở đó có ao hồ hay ngõ vào thì nơi đó có thành môn ngầm (thí dụ: nhà toạ mão hướng dậu, vận 8 khi an vận bàn thì 5 đến tây nam. Nếu nơi đây có thuỷ hoặc ngõ vào thì tây nam có thành môn)
• Khi các sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn(số cửu tinh tại cung hướng đó , như hướng bắc là 1, hướng nam là 9,…) tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ( khi là hướng tinh), núi cao, cây cao(khi là sơn tinh)... thì cũng được xem như có Thành môn.
* Khi Hướng tinh ở 1 trong hai bên kết hợp với hướng tinh ở đầu hướng thành 1 cặp số tiên thiên (1-6; 2-7; 3-8; 4-9) mà ở đó lại có thủy hay cổng, ngõ thì xem như có thành môn
Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà số cửu tinh của đông bắc là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu nơi này có ao hố hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.
Thành môn là then chốt cho sự thịnh suy của ngôi nhà. Tuy hướng không vượng nhưng được thành môn có vượng khí thì vẫn tốt đẹp hay nhà đã được vượng khí mà lại được thành môn thì đã vượng lại càng vượng thêm. Tuy nhiên không phải cứ hai bên đầu hướng có thuỷ, cổng hay ngõ vào là đã tốt mà phải coi có đắc thành môn hay không.
Cách tìm thành môn
• Xét cung hướng chính thuộc tam nguyên long nào? Cung hướng của thành môn phải cùng tam nguyên long với đầu hướng
• Đưa vận tinh tại hướng đó cho bay thuận hay nghịch tuỳ theo tính chất âm dương của tam nguyên long đó.
• Xem vượng tinh có tới hướng đó hay không? Nếu có vượng tinh tới hướng thì có thể mở cổng, cửa ngõ vào khu đất hay để nước ( phải là nước lớn như ao, hồ,…)Cho dù hướng tinh ở đó là suy, tử thì vẫn có thể dùng không ngại
Trong 3 loại thành môn trên thì thành môn chính là có tác dụng mạnh nhất thứ đến là thành môn phụ. Thành môn ngầm tuy lực yếu hơn nhưng lại không phụ thuộc vào một sơn như 2 thành môn kia mà bao trùm hết 3 sơn trong hướng đó
Tóm lại
Tìm thành môn là tìm cách mở cổng, ngõ hay nơi có thuỷ bên ngoài nhà
Cách tính Thành Môn đơn giản chỉ là:
1/ Hướng có Thành Môn phải cùng 1 Thiên, Địa hoặc Nhân nguyên long với toạ, hướng của căn nhà (hoặc ngôi mộ).
2/ Hướng của vận tinh tới Thành Môn là sơn âm, xoay nghịch thì Thành Môn sẽ đắc vượng khí và dùng được. Nếu là sơn dương, xoay thuận thì chỉ gặp toàn khí suy, tử tới Thành môn nên không thể dùng. 3/Nếu khí Thành môn vượng thì dù hướng tinh ở nơi đó có là suy , tử cũng nên đặt nước. Tuy nhiên, nếu đã đặt thì nước phải lớn mới có tác dụng. Hay nơi khí thành môn vượng mà có ngã ba, ngã tư thì rất tốt.
4/ Nếu khí thành môn đến cung không đồng ngyuên với hướng thì chỉ tốt trong vận đó mà thôi
"Thành môn quyết"
Phép mở cửa dùng “thành môn quyết”
Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng, hướng không có vượng khí tới hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh, tiến khí thì ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở cửa.
Điều cần lưu ý là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí chỉ được lúc đầu mà thôi.
Ngoài ra còn một số trường hợp sau:
1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP hướng CANH vận 8. Khi an hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng. Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết thành môn xét cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên nguyên của 1 là TÝ, TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới cửa. Điều này sẽ làm vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu ý cửa chỉ để trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái tốt đẹp.
2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN vận 7 có cửa tại TUẤT được vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7 trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì tinh bàn vận 8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác tại TỐN (hoặc TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên nguyên, thiên nguyên của 7 là ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN
3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách thì cũng không nhận được vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay lại mở ở Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long, Địa nguyên long của thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được vượng khí.
4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí thành môn thì vẫn không đến nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1 tuy là tiến khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một thời.
5)_ Nhà đả được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng có hướng tinh là sinh hoặc tiến khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8. Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng BẮC. Nay muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa nguyên long, địa nguyên long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là 4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên long của 4 là THÌN, tính chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của MÙI là âm và tính chất của NHÂM là dương.
Dưới phần này ( hướng nhà) , bạn sonthuy thiếu phần tâm nhà và phương pháp lập tinh bàn. Nếu bạn có kèm theo các đồ hình lập tinh bàn thì giúp cho các bạn mới học dễ hiểu hơn. Ở các phần khác cũng vậy nên kèm các đồ hình thì rất hay.
Cảm ơn bạn.
lesoi
lesoi hãy đọc qua tài liệu tiếng Anh này: http://www.heluo.nl/articles/FindingTheCenterOfABuiltStructure.pdf
Nhìn các hình cũng đủ nhận ra cách tìm tâm nhà cho nhiều dạng kiến trúc khác nhau. Nếu có câu hỏi gì về bài của heluo, lesoi hãy mở chủ đề khác, vì chúng ta dành cho sonthuy gửi tiếp tục các chương khác trong bài này.
Hi Lesoi
Bài: "Phong thủy Huyền Không Phi Tinh" đăng lên đây là của anh VanHoai bên Huyền Không Lý Số, 1 số đồ hình bị thất lạc sonthuy sẽ cố gắng lục lại và đăng lên sau.
Phương pháp lập tinh bàn thì có phần mền của bạn Dualathlon HKLS rất hay và tiện dụng cũng sẽ đăng lên sau.
Các bạn cần bàn luận cứ mở thêm phần Hành lang phong thủy nhé.
Chị KimCuong đưa lên bài heluo để tham khảo về tâm nhà cũng rất hay.
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
"Thành môn quyết" tiếp
Để tìm cung có vượng khí trong nhà hầu đặt bếp hoặc đặt thủy kích tài, Ta cũng cần dùng "bí quyết thành môn".
Trong vận 8 này các cung có vượng khí theo "thành môn quyết" là:
- Hướng Nam: Ngọ, Đinh
- Hướng Tây Nam: Mùi
- Hướng Tây: Dậu, Tân
- Hướng Tây Bắc: Càn, Hợi
- Hướng Bắc: Nhâm
- Hướng Đông Bắc: Sửu
- Hướng Đông: Giáp
- Hướng Đông Nam: Tốn, Tị
Thí dụ: Nhà Nhâm hướng Bính vận 8. Cung Đông Bắc có (1-6), nay muốn đặt nước kích tài thì cung đặt nước có tác dụng mạnh nhất là trong cung Sửu. Hướng Bắc có cặp (8-8), nay muốn đặt bếp thì vị trí tốt nhất là cung Nhâm. Đối với các vật khí khác cũng vậy...
Chính Thần & Linh Thần
Chính thần là dùng nơi cao sơn của sao đương vận tức vượng khí của sơn mạch, mà thu nhận khí. Như vận 1 thì Nhất bạch là đương vận, nên lấy phương vị nhất (khảm) làm chính thần. Vận 2 thì Nhị hắc là đương vận, nênlấy phương vị Nhị (khôn) làm chính thần.….Nếu phương vị của chính thần mà có :Sông, hồ, biển,… thì khu vực đó (làng mạc hay khu dân cư,…)sẽ có nhiều hung họa. Như vậy phương của chính thần cần có sơn và không được có thủy, nếu có thì sẽ có nhiều tai họa trong vận đó.
Linh thần là phương đối lại của chính thần. Như vận 1 phương đối lại của chính thần là vị trí Cửu (ly) làm linh thần, vận 2 thì phương đối lại của chính thần là vị trí Bát (cấn) làm linh thần,…Riêng vận 5 có 20 năm, mà Nhị (Khôn) của Thượng nguyên và Bát (Cấn) của Hạ nguyên đều thuộc thổ, nên mười năm trước lấy Nhị (Khôn) làm chính thần và mưới năm sau lấy Bát (Cấn) làm chính thần
Phương vị của Chính Thần cần có cao sơn thực địa
Phương vị Linh Thần cần sông nước, trũng thấp
Coi về Chính thần, Linh thần là coi về vượng suy của một làng mạc hay thành phố
Thí dụ : vận 8, phương vị của Linh thần nằm ở phía TÂY NAM. Do đó, nếu khu vực đó của làng mạc hay đô thị... mà có sông, hoặc cửa biển... thì rất tốt, chủ vượng phát về mọi mặt. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có thế núi hay thế đất tiến tới thì ngôi làng hay đô thị đó sẽ gặp nhiều tai biến, hung họa.
Còn về nhà ở thì lấy sơn tinh đương vượng làm Chính Thần và hướng tinh đương vượng làm Linh Thần. Phương Linh Thần nên có Thuỷ, thấp trũng hay đường đi. Đây gọi là:”Khơi thuỷ nhập Linh đường”. Nếu phương vị của Hướng tinh sinh, vượng khí lại vào vị trí của Linh thần đương vận mà có thuỷ , thấp trũng hay đường đi thì như: “Gấm thêm hoa” đã vượng càng thêm vượng. Còn Hướng tinh sinh vượng khí vào vị trí Chính thần của đương vận thì vẫn cần có thuỷ thì mới vượng phát được, còn gặp cao sơn thì vẫn suy như thường
Chọn hướng nhà và vấn đề thuần khí
Chọn hướng nhà và mở cổng , cửa
Nhà ở Việt Nam thường không được chính hướng và không có cửa sau lại chỉ cần chút mặt tiền rồi chạy dài ra sau tạo nên nhà hình ống. Ngay cả ngày nay đất dự án người ta cũng phân lô theo 4m hay 5m . Cho nên để thay đổi một nếp suy nghĩ của người mình không thể một sớm một chiều mà có khi mất nhiều thế hệ.
Trước hết phải nói đến vấn đề thuần khí. Không những thuần khí cho hướng mà còn thuần khí cho cửa. Dùng tinh bàn thế quái cho nhà kiêm hướng cho dù có được "vượng sơn vượng hướng" đi chăng thì vẫn khó có thể ở lâu dài và có nhiều hung họa chực sẵn, con người tuy có tiền của nhưng bủn xỉn keo kiệt,.... Đối với mở cửa cũng vậy, rất cần nằm trong một cung tức trong một nguyên long mà thôi.
Khi mở cổng cần lưu ý vấn đề thuần khí như sơn-hướng ở nhân hoặc thiên nguyên long thì cổng, cửa cũng cần ở nhân hoặc thiên nguyên long, địa nguyên cũng vậy. Nếu nơi mở cổng có ngã 3 hay ngã tư lại đắc thành môn thì phát phúc một thời. Một điểm quan trọng khác là tuy tọa-hướng và cổng, cửa của 1 căn nhà cần phải cùng 1 Nguyên Long với nhau, nhưng phải trái ngược âm-dương mới bảo đảm được phúc, lộc lâu dài .
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU
NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ
ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Chọn hướng nhà
Trước hết cần được chính hướng. Thí dụ: hướng Ly là 180 độ, hướng Đinh là 195 độ,….Chỉ có thể lệch không quá 3 độ (với những nhà đã xây cất thì khi đo không quá 2 độ vì sợ ánh hưởng của các vật dụng bằng điện từ hoặc bằng sắt, thép). Sử dụng thế quái khi chẳng đặng đừng mà thôi. Vì khi lên tinh bàn với nhà kiêm hướng thấy tinh bàn có lệnh tinh ở hướng, tuy vượng mà không vượng. gặp những trường hợp phạm Đại không vong hoặc tiểu không vong (giữa Địa và Thiên nguyên long) thì dứt khoát không dùng. Sau đó coi ở hướng cặp sơn-hướng tinh sinh nhập, khắc nhập thế nào? sinh nhập thì cát, sinh xuất thì hung hoặc khắc nhập thì cát, khắc xuất thì hung. Nhưng nếu biết thì nhà "vượng sơn vượng hướng" vẫn có thể dùng, qua vận kế thì đổi nhà hoặc đổi vận. Tiếp theo coi các cặp sơn – hướng ở hướng có bị các cặp hung sát
Sau cùng coi vị thế loan đầu tức hình thế bên ngoài có phù hợp với tinh bàn hay không. Quan trọng nhất là TỌA và HƯỚNG ngoài ra những nơi có cửa ra vào nhà cũng cần xem xét cẫn thận.
Mở cổng , cửa
Nếu nhà được vượng hướng tức hướng tinh là vượng tinh tới hướng thì cửa chính cần ngay chính giữa nhà và nằm trọn trong cung này. ở VN ngày nay người ta có xu hướng làm cửa chính gần hết mặt tiền nhà, điều này làm cho cửa chính bị tạp khí, âm dương lẫn lộn. Đối với những nhà không được vượng khí tới hướng ta có thể dùng “bí quyết thành môn” để mở cửa tuy rằng sự tốt đẹp không thể bằng nhà vượng hướng nhưng cũng giúp cho gia chủ đỡ chật vật về tài chính (đây chỉ là biện pháp chữa cháy mà thôi không có tính lâu dài) Thí dụ : nhà tọa dậu hướng mão vận 8. tử khí tứ lục tới hướng nếu mở cửa tại mão hoặc canh thì tứ lục tới cửa. Nhưng nếu mở cửa tại Giáp thì lại được, vì áp dụng bí quyết thành môn thì vượng tinh 8 tới cửa.
Một lưu ý nữa là nếu nhà bị tử khí tới hướng nhưng khi xét thành môn mà đắc thành môn lại có thể mở Cổng ở phương này thì nên dùng sẽ không thua nhà vượng hướng là bao.
Nhà ở VN ngoài phố thường không có cửa sau vì tấc đất tấc vàng nên người ta tận dụng từng cm một. Có nhiều nhà “vượng sơn vượng hướng” hoặc “tam ban quái” nhưng tại sao chỉ tốt đẹp trong một số năm đầu rồi sau đó lụi tàn dần? Vì cửa sau là lối ra của suy khí . Khi bố trí cửa sau cũng cần theo nguyên tắc thuần khí và âm dương trái ngược nhau (âm dương hòa hợp).
Đạt được các điều trên thì 90% có Phú quí, phúc lộc đầy đủ
Tam cát & ngũ cát Tam Cát
Huyền Không phong thủy được cho là từ "Kỳ môn độn giáp". Theo Kỳ môn thì 3 cửa: Hưu, Khai, Sinh là 3 cửa tốt nhất, sẽ đem lại thuận lợi, may mắn.
Lạc thư Nhất Bạch ở phương Khảm, cửa hưu của Kỳ môn cũng ở phương Khảm; Lục Bạch ở phương Càn, cửa Khai cũng ở phương Càn; Bát Bạch ở phương Cấn, cử sinh của kỳ Môn cũng ở phương Cấn. Cho Nên ba sao: Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch là ba cửa Hưu, Khai, Sinh của Kỳ Môn.
Thế nào là Tam cát? Tức Nhất bạch, Lục bạch, Bát bạch. Nhất bạch là đầu chín sao(cửu tinh), thống lãnh các quái, là đứng đầu của tam hợp. Thiên khí thì giáng xuống, địa khí thì bốc lên, cũng là nơi dung chứa sự cao thấp,một khi hai đường Bát, Lục khác nhau tương sinh, kim cứng gặp thổ là giàu sang cực độ.
Ngũ cát
Ngũ cát tức là hợp tam ban mà kiêm lấy Tham Lang với Tả Phụ. Như vận 1 lấy thủy Nhất Tam Nhị phối với Lục Bát. Vận 4 trung nguyên lấy thủy Tứ Ngũ Lục phối với Bát Nhất. Vận 7 hạ nguyên lấy thuỷ Thất Bát Cửu mà phối với Nhất Lục .
Nếu bày bố tam cát, ngũ cát đúng phép, xuyên suốt liên nhau thì phát phúc lâu dài mà không cần phải dùng thế tinh (tức làm lệch hướng nhà để dùng thế quái)
Thủy pháp “Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài”. Dùng thủy pháp là bố trí thủy tại những nơi có hướng tinh là “tam cát, ngũ cát” để làm hưng vượng tài lộc
Thí dụ nhà Tý hướng Ngọ vận 7, tinh bàn như sau:
...
Nhà này trước nhà là đường lớn tức là hư thủy. Hướng Nam có hướng tinh 6, hướng đông nam có hướng tinh 1, hướng tây nam có hướng tinh 8. Tuy vào vận 7 hướng tinh 6 là tử khí nhưng vì trước nhà có tam cát lại có đường đi nên không đến nỗi suy bại mà tài lộc lại có phần khá. Tuy nhiên vì vận 7 cửa mở tại Ngọ là không có vượng khí nên chỉ bình bình, qua vận 8 thì làm ăn có chiều hướng phát triển tốt hơn. Chỉ có điều sơn tinh 8 bị tù nên con cái đi học xa hoặc xuất ngoại, nhà thưa vắng người.
Trong nhà nếu bố trí thủy vào cung hướng có hướng tinh là tam cát, ngũ cát cũng làm thúc đẩy tài vận (lưu ý nên dùng "thành môn quyết" để vào đúng vị trí)
Thẩm Trúc Nhưng đã nói:Then chốt của "cát, hung, hoạ, phúc" là Sơn thần phải ở trên núi và thuỷ thần phải ở dưới nước. Tức là hướng có hướng tinh là vượng sinh tiến khí cần có thuỷ hoặc trống thoáng hay đường đi. hướng có sơn tinh là vượng sinh tiến khí thì cần có núi hoặc đồi cao hay cây cao.
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm,bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng. Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà đó. Ta có thể dùng thuỷ nhân tạo như làm hồ nước lớn hoặc đài phun nước ở những nơi cần có thuỷ và làm non bộ (lớn) hoặc trồng cây cao tại những nơi cần có sơn (đối với bên ngoài nhà).
Đối với những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Trước hết cần dùng bí quyết thành môn để mở cổng hoặc cửa chính (thí dụ: Nhà toạ dậu hướng mão vận 8 ở hướng có hướng tinh 4 là tử khí nhưng nếu mở cửa chính tại cung giáp thì sẽ đỡ lại tuy vẫn chịu ảnh hưởng của tử khí Tứ Lục, dĩ nhiên là không thể bằng nhà có vượng tinh đáo hướng). Sau là phối hợp thuỷ pháp để kích tài.
Thuỷ pháp còn là cách bố trí thuỷ trong nhà tại những nơi có hướng tinh là:
_ Tam cát : Nhất bạch, lục bạch, bát bạch. Đặc biệt nơi có hướng tinh 6 nếu bố trí thuỷ động như phong thuỷ luân hoặc hồ cá thì sẽ kích tài mạnh vì cặp số 1-6 hoá thuỷ tiên thiên chủ về công danh và tài lộc.
_ Ngũ cát : gồm có tam cát cộng hai sao là vượng khí và sinh khí.
Trong nhà bồn rữa chén, wc, bồn nước đều coi là thuỷ. Tuy nhiên nếu đường nước đi ngầm hoặc đậy kín thì không ảnh hưởng bao nhiêu
Những nơi không nên có thuỷ:
- những hướng tinh hung sát như: 5; 2; 7 ( trừ trường hợp chúng nằm trong ngũ cát)
- các cặp sơn hướng tinh: 2-3; 7-6; 9-7; 2-7; 7-3
- Các khu vực có các sao vận-sơn-hướng đều là sao âm như: 2; 4; 5; 7; 9 thì không nên thấy thuỷ ( thí dụ: 2-5-9; 2-4-7; ....). Nếu có thì sẽ có người đàn bà làm loạn hoặc làm mất hạnh phúc gia đình. Đặc biệt sao toạ là 4 mà có thuỷ thì gia đình tan vỡ, vợ chồng ly thân...
Thuyết cải tạo mệnh vận Mọi cục diện đều có sơn cùng thủy tận. Khó bề duy trì mãi một thời kỳ. Vì vậy đừng để đến lúc tận cục. Khi bắt đầu cảm thấy không chịu đựng nổi, tức là khí sinh vượng của âm hoặc dương trạch đã suy giảm hoặc cùng kiệt, hoặc sử dụng không hợp thời, thì hãy nhớ câu minh triết của dịch lý: “Cùng tắc biến, Biến tắc thông”. Người am hiểu đại số lạc thư muốn cứu nhân độ thế,có thể sử dụng nguyên lý biết ắt thông,suy tính cách thay đổi cục diện vốn có, để chuyển bại thánh thắng, chuyển bĩ thành thái. Thay đổi, cải tạo bằng cách nào? Người khá giả thì đập đi xây mới, hoặc lợp lại mái nhà vào mÙa khô, ngày nắng ráo, hoặc tạm thời chuyển đi chỗ khác vài tháng sau mới trở về, sẽ thấy ngay hiệu lực của việc thay đổi, cải tạo. Song muốn cải tạo âm, dương trạch, phải tính toán thiên tinh hiện thời cho chuẩn xác, tu tạo phải chọn ngày giờ phù hợp với hành độ của thiên tinh (tinh bàn)
Trích Trạch vận Tân Án
Cách cải tạo mệnh vận, còn gọi là đổi vận thường có các cách sau:
• Đập cũ xây mới.
• Xây mới thêm trên 2/3 diện tích cũ.
• Bỏ nhà trống trên 100 ngày (có nhiều trường hợp 49 ngày đã có tác dụng, nhưng không bảo đảm)
Trong thời gian làm các việc trên chúng ta lo sửa chữa để bố trí cho hợp với tinh bàn của vận mới. Sau đó sẽ chọn giờ lành tháng tốt mà nhập trạch trở lại
__________________
Hướng pháp và thủy pháp của huyền không Phàm xem đất, trước hết xem hình cục của sơn thủy và bình dương có hoàn mỹ hay không. Sau đó đối chiếu vận tinh (sao vận) với địa bàn xem sinh khắc thế nào, tiếp đó lệnh tinh (sao vượng) của sơn hướng có đáo sơn, đáo hướng hay không, rồi xem Chính thần, Linh thân ra sao, tiếp đó xét lệnh tinh chiếu tới Thành Môn, bởi thành môn tùy vận mà biến hóa, xem thành môn nên lấy hay bỏ. Rồi dùng tiêu chuẩn lập hướng tiêu thủy để xác định phân châm tọa hướng, xem có thể kiêm hay không được kiêm. Có người sẽ hỏi: “Nếu âm, dương trạch đáo sơn đáo hướng lại phải thu được vượng khí của thành môn và thu sơn thoát sát, còn phải tùy tiết khí mà chọn đất, thì quá phức tạp, liệu có phương pháp nào đơn giản hơn chăng?. Có thể giải đáp như sau: “Về chân long huyệt, thì nên lấy vượng tinh của hướng, nhưng nếu Thành môn đã thu được vượng khí , thì có thể nhân lúc lệnh tinh đang vượng mà tu sửa. Cách này tương đối đơn giản, nếu phải hạ táng, tuy không có điều kiện chọn ngày, vẫn có thể nạp cát; còn nếu tu sửa phần mộ tối kỵ sát chiếm hướng, nhất là hướng động khí và thủy khẩu.
Phương pháp lập hướng phải chú trọng những gì? Trước tiên phải xem vị trí lai Long nhập thủ, xem có cục nào trong Thiên, Nhân, Địa nguyên, sau đó đối chiếu cục ấy hợp với nguyên, vận nào, nếu thuộc dương lệnh đáo sơn đáo hướng thì có thể lấy mà dùng, nếu thuộc lỡ vận, không đương lệnh, thì dụ hình cục hoàn mỹ cũng chớ tham mà chuốc họa tuyệt diệt, suốt đời ôm hận. Sau khi phân biệt ba nguyên, lại xem thủy lai thủy khu81 (thủy đến, thủy đi), phối hợp sơn hướng, xác định xem có thể kiêm hay không thể kiêm, cần có sao vượng đáo sơn hoặc trhu3y xứ, cần có sao suy đến cửa thủy khứ. Ví dụ: Vận 7 là đầu của Hạ nguyên, là do sao Phá Quân quản cục, thì cần sao đương lệnh 7 đáo sơn đáo hướng, còn ở phương đi của thủy khẩu phải là sao 3,4,5,6 phương đến của thủy khẩu phải là các sao 8,9,1 chiếu tới mới hợp lý khí
Chú thích: Hướng vượng gặp thủy tức là thủy vượng, không gặp thủy, hoặc gặp thứ thủy tù đọng thì là thủy suy.” Thiên Bảo kinh” từng dặn đi dặn lại rằng: “Long phải hợp hướng, hướng phải hợp thủy”.
Có người hỏi:” Lập hướng hai vận 1, 9 là khó nhất, dễ phạm hung hơn cả, nên xử lý thế nào? . Đáp: “Vận 1, 9 như ngụ ý Dương Quân Tùng đã nói: Long Giang Nam đến, Giang Bắc ngóng trông, là phụ mẫu trong vận 9, lại là thống lĩnh trong vận 9, sức long từ xa tới mà sao từ phương vượng đến thường là song hành, nên hai vận 9, 1 đều không có tọa hướng lý tưởng về đáo sơn đáo hướng, duy trong vận 1 chỉ có tọa Ngọ hướng Tý là khả dụng, trong vận 9 chỉ có tọa Canh hướng Giáp là khả dụng. Nếu thế, có phải trừ hai hướng đó , các hướng còn lại đều phạm hung chăng? Không hề! Ở đây, trước hết hãy xem lực của hai Long mạnh hay yếu, tiếp đó xem có phải Long chân huyệt hay không. Nếu lực của hai Long mạnh mà không phạm Quá quái và là sai thố, lại thuộc Long chân huyệt, lai thủy và khứ thủy với lai Long đều cùng một nguyên, hợp thành quẻ thuần túy, thì có thể dùng phép thế quái đem sao vượng đến chỗ lai thủy, ở hướng đó hoặc ở nơi lai Long nhập thủ sẽ có thể phát phúc lâu dài”.
Câu “Chính sơn, chính hướng lưu chi thượng quả yêu ngộ hình trượng” trong Thiên Bảo Kinh của Dương Quân Tùng, có nghĩa là sơn Thiên nguyên cần thủy lưu Thiên nguyên, sơn nhân nguyên cần thủy lưu Nhân nguyên, sơn Địa nguyên cần thủy lưu Địa nguyên, chớ để lẫn lộn. Chữ “Chính” trong “chính sơn chính hướng” nghĩa là sơn thiên can (ví dụ: nhâm, quí, bính, đinh, canh, ất,…) cần kiêm ít chứ không được kiêm nhiếu, nếu kiêm nhiều sẽ phạm sai thố. Ba chữ ”Lưu chí thượng” có nghĩa sơn thiên can không thể khác địa chi với thủy lưu của nguyên, nếu phạm, e sẽ cô quả hoặc bị thua kiện. Do dó, sơn hướng cùng một nguyên cần có phối hợp âm dương. Chính hướng, chính sơn còn gọi là chủ hướng chủ sơn, kiêm hướng còn gọi là Chi Thần , nghĩa là Long, Sa, Thủy đều phải cùng một nguyên với Chính tọa chính hướng, không được cùng nguyên với kiêm hướng (Chi Thần). Đó chính là Thủy pháp, Sa pháp và tôn chỉ lập hướng của Huyền Không phong thủy.
Huyền Không phong thủy lại phân biệt cục Thuận Tử và cục Nghịch Tử, lấy Càn Khôn Cấn Tốn, Giáp Canh Nhâm Bính, Dần Thân Tị Hợi làm Dương. Lấy Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, Ất Tân Đinh Quí làm Âm, đem Dương đặt trong thủy, nghĩa là thủy khẩu lai khứ đều thuộc Dương; đem Âm đặt trên sơn, nghĩa là tọa sơn, triều sơn đều thuộc Âm, thành cục Thuận Tử. Nếu đem Âm đặt trong thủy, đem Dương đặt trong sơn, thì thành cục nghịch tử. Như vậy, mỗi sơn có hai cách dùng, là chính cục và kiêm cục, 24 sơn vị chi là 48 cục, đúng như câu kinh: “24 sơn song song khởi”.
Trích TRẠCH VẬN TÂN ÁN
Ý nghĩa của các cặp sơn-hướng tinh Sự kết hợp của các cặp sơn - hướng tinh hoặc đường lối đi trong hay ngoài nhà tạo thành các cặp hướng tinh cũng nói lên nhiều ý nghĩa trong bố cục của căn nhà.
Những cách 1-6, 2-7, 1-4, 6-7 đều đáng kể và phải được đặc biệt chú tâm tới, nhất là nếu chúng lại có ngoại hình hay cấu trúc bên trong ứng hợp, mức độ tốt, xấu sẽ từ đó biểu hiện hoặc gia tăng khốc liệt. các cặp 1-6, 1-4 không bao giờ bị luận là suy tử, chỉ trừ khi bị ngoại hình bên ngoài làm hỏng mà thôi, còn thường thì chúng đều rất tốt đẹp. Cặp 2-7 chỉ tốt nếu chúng là vượng khí, hoặc đi với những khí sinh, vượng là Thổ như 5, 8. Còn nếu không thì cần phải đề phòng. Cặp 6-7 là Giao kiếm Sát thì chỉ trừ lúc 1 trong 2 sao là khí sinh, vượng thì không sao, còn nếu không thì sẽ có vấn đề tranh chấp hay bị trộm cướp hoặc án mạng.
Cũng có thể dùng 1-6, 2-7 để luận Ngũ hành sinh, khắc của cung này, nhưng như đã nói là vẫn phải để ý đến ngoại hình và thiết kế, cũng như động tĩnh của khu vực này trước, sau đó mới tính đến vấn đề Ngũ hành sinh khắc, và vì vậy sẽ có muôn ngàn trường hợp khác nhau, tuy rằng trạch vận căn nhà thì giống nhau. Lấy thí dụ như khu vực này của 1 căn nhà mà có hồ tắm thì 1-6 đắc thế, khu vực này có kim-thuỷ vượng, chủ sinh ra người tài hoa, văn chương cái thế, học hành giỏi dang. 2-6, nếu như khu vực này lại có núi thì lúc đó Sơn tinh 2 vượng, nhưng là tử khí nên là cách trong nhà phát sinh quả phụ, người đàn ông trong nhà nếu có giỏi dang cũng yểu chết, khó thành danh. Nếu chỗ đó có bếp cũng chủ nhân đinh suy bại, gặp năm niên tinh 7 tới hoá hợp thành Hoả tiên thiên 2-7 là Hoả vượng khắc Kim 6, sợ rằng người cha, người chủ gia đình có tai hoạ lớn. Cho nên Huyền Không là biến hoá, muôn hình vạn trạng, chứ không có 1 công thức nhất định tính độ vượng, suy của ngũ hành hoặc phi tinh.
Cặp 3-8/ 8-3 cũng vậy, tuỳ theo địa hình, cấu trúc mà tính chúng là tốt hay xấu trong vận 8. Nhưng thông thường thì chúng là tốt, nhất là nếu nơi đầu hướng có 8, bên mé phải hoặc trái lại có 3.
- 1-6: Hợp hoá thành thuỷ tiên thiên, nếu có nước thì đắc lôi quan thuỷ, lợi cho tài vận và công danh.
- 2-7: Hoà tiên thiên: Chủ bệnh tật nặng và lâu dài, rất có thể bị đau tim và cao máu.
- 7-9: Hoả hậu thiên : Bực bội, thần kinh căng thẳng.
- 4-9: Kim tiên thiên: Nếu ở cung càn thì công danh thuận lợi. học hành thi cử đỗ đạt.
- 3-8: Mộc tiên thiên: Đại lợi cho công danh và tài lộc.
- 9-2: Lưỡng âm hoả: Có chuyện xích mích, cãi cọ.
- 6-7: Thương kiến sát: Chủ về tai nạn thương tật hoặc trộm cướp.
- 2-7: Đấu ngưu sát: Chủ về tranh chấp dẫn đến đánh nhau.
- 3-7: Xuyên tâm sát: Chủ về cãi cọ, bất hoà,...
- Các cung có các sao toàn âm (-) : 2;4;5;7;9. Vdụ: 9-4-7 hoặc 5-9-2; ...Nếu có thuỷ ở đó là nguy hại cho ngườii đàn ông trong nhà, nên đoán nếu người chồng không bỏ nhà đi xa thì ắt phải chết sớm .
- Tam ban quái ở trung cung (258; 369; 147): Gia đình hòa thuận, con cái ngoan hiền, có chí,...
- Hỏa khí quá mạnh: Như nhà tọa dậu hướng mão vận 7: Đầu hướng có 2-7(hỏa tiên thiên) lại thêm vận tinh 5 rồi vào trung cung gặp 9-7 (hỏa hậu thiên) cộng với hướng tinh 5 cũng đếu là hỏa . Rồi đến phương tọa gặp 7-9 cũng hỏa hậu thiên thêm hướng tinh 3 là thế mộc sinh hỏa. Mà hỏa thịnh thì khắc kim nên đương nhiên ngực, phổ, cổ họng bị đau. Còn một yếu tố nữa là nhà có hỏa khí mạnh thì con người bực bội nên trong nhà hay có cải cọ , to tiếng
BẾP Luận về nhà bếp
Bếp là nơi chế biến thức ăn cung cấp năng lượng nuôi sống con người. Tức là nơi phát sinh và dẫn hỏa vào nhà. Cho nên nó liên quan mật thiết đến sức khỏe, dân số trong nhà đó. Vì thế cách bố trí bếp người ta thường tránh đặt bếp gần thuỷ như bồn rửa chén, vòi nước, bể nước, wc, tránh các xung sát như cầu thang, lối đi chiếu vào bên hông hay đằng trước, thậm chí vòi nước cũng không được chĩa vào bếp. Bởi vì những thứ này đều là thủy, mà thủy thì có thể làm tắt hỏa, dẫn đến nguy hại cho sức khỏe và nhân đinh trong nhà. Bếp còn không được nằm dưới xà nhà, hay nhà có nhiều tầng thì không được kê giường trên bếp hoặc wc cũng không được ở trên bếp, bếp không được để vào chỗ mà khi trước là wc vì nơi này đã trở nên ô-uế, Cầu thang cũng không được ở trên bếp
Theo Huyền không thì bếp đặt vào cung có sinh, vượng khí của sơn tinh sẽ làm cho người nhà khỏe mạnh, con cái mau thành đạt
Về vấn đề Thủy ở gần bếp thì hiện nay còn nhiều tranh cãi, chúng ta còn phải tiếp tục chiêm nghiệm. Tuy nhiên cũng có một vài ý sau:
- Nơi để bếp có sơn tinh là suy tử khí, nhưng hướng tinh là sinh vượng khí - Cần Thủy
- Bếp tại cung Ly (hướng Nam) hay sơn hướng tinh kết hợp thành hỏa hậu thiên hay hỏa tiên thiên (2-7); (7-2); (7-9); (9-7) - Cần Thủy
- Bếp tại cung có hướng tinh 6 hoặc 7 (hỏa khắc kim) - Cần Thủy
- Khu vực đặt bếp có sinh vượng khí của sơn tinh và Suy, tử khí của hướng tinh thì không được có thủy
- Khu vực đặt bếp có sao tử tôn tinh (3-4); (4-3) không được có thủy
- Bếp để ở khu vực có sơn hướng kết hợp thành tủy tiên thiên (1-6); (6-1) hoặc cung Khảm,...không được có thủy, sẽ dập tắt hỏa.
Về cầu thang và lối đi chiếu vào bếp thì lại cần coi tinh bàn như thế nào.
Đặt tinh bàn của nhà vào tâm của bếp. Nếu hướng cầu thang hay lối đi chiếu vào có sinh, vượng khí của hướng tinh thì được coi là tốt. Còn ngược lại nếu là suy tử khí của hướng tinh thì được coi là xấu.
Chúng ta cần chiêm nghiệm thêm
Hướng bếp
Theo Huyền Không thì nơi để bếp chủ về sức khỏe và nhân đinh, còn hướng bếp là chủ về tài lộc. Nếu hướng bếp (phía lưng người nấu) có hướng tinh là sinh, vượng khí thì rất tốt cho tài lộc hoặc có hướng tinh là:
- Nhất bạch Thủy: được “Thủy hỏa ký tế” nên là bếp tốt.
- Tam bích, tứ lục Mộc: Mộc sinh hỏa nên cũng là bếp tốt.
- Bát bạch thổ: Hỏa sinh Thổ (bát bạch là cát tinh) nên là bếp tốt vừa.
- Cửu tử: tị hòa nên cũng tốt vừa.
- Nhị hắc, Ngũ hoàng: Cũng hỏa sinh thổ nhưng nhị hắc và ngũ hoàng là hung tinh nên là bếp xấu.
- Lục bạch, thất xích Kim: Hỏa khắc Kim nên là bếp xấu
Tác giả VanHoai
huyenkhonglyso.com
Luận về phòng ngủ
Con người ta cần 1/3 thời gian trong ngày cho việc ngủ, nghỉ. Nên phòng ngủ đối với mỗi người trong nhà là rất quan trọng. Cùng một ngôi nhà nhưng mỗi người đều có sự thịch suy khác nhau, nếu phòng ngủ hay giường ngủ đặt vào chỗ hung nhiều khi có thể bệnh tật triền miên hoặc chết người.
Vì phòng ngủ là quan trọng nên người ta cho phòng ngủ là 1 trong 3 yếu tố quan trọng trong ngôi nhà (cửa chính, bếp, phòng ngủ). Phòng ngủ không được có bếp tựa vào, cửa phòng không được có cầu thang hay lối đi chiếu vào, giường ngủ không được dưới wc hay dưới xà nhà,…
Ngoài yếu tố theo Huyền Không là cửa phòng ngủ nên có hướng tinh là tam cát hoặc ngũ cát tính theo tâm phòng ngủ (dùng tinh bàn của nhà), người ta còn kết hợp dụng thần của người ngủ trong phòng đó.
Như người có dụng thần, hỷ thần là Hỏa nên ở phòng hướng Nam(so với tâm nhà), dụng thần, hỷ thần là Thủy nên ở phòng hướng Bắc,…..Đầu giường cũng nên quay về các hướng này
Về giường ngủ thì cần xét các yếu tố sau (tính theo tâm nhà):
1/- Những vị trí nên tránh:
• So với chi của năm sinh tránh những cung nằm trong Địa chi tương hình:
- Dần-tị-thân
- Sửu-tuất-mùi
- Tý-Mão
- Thìn-Thìn; Ngọ-Ngọ; Dậu-Dậu; Hợi-Hợi
• Năm gặp Thái Tuế, Tuế Phá: Nếu là năm hạn và đặc biệt là năm mệnh xung Thái tuế tại cung hướng gặp Thái tuế có hướng tinh là sinh, vượng khí thì không sợ Thái Tuế, còn không được thì không nên kê giường tại nơi này kẻo tai họa đến.
- Phương Thái Tuế: Năm Tý ở phương Bắc, năm Sửu ở phương Sửu,…
- Phương Tuế Phá: Năm Tý ở phương Nam, Năm Sửu ở phương Mùi,…
- Mệnh xung Thái Tuế: Thần-Dần; Mão-Dậu; Thìn-Tuất; Tị-Hợi; Ngọ-Tý; Sửu-Mùi
• Năm gặp Ngũ Hoàng: Gặp niên tinh Ngũ Hoàng đến phương nào thì nên tránh kê giương ngủ tại phương đó.
• Năm gặp Tam sát: Nếu tại phương gặp năm có tam sát cũng nên tránh không kê giường tại phương này trong năm
Phương tam sát:
- Năm Hợi, Mão, Mùi tam sát ở các phương: Thân, Dậu, Tuất
- Năm Dần, Ngọ Tuất tam sát ở các phương: Hợi, Tý, Sửu
- Năm Thân, Tý, Thìn tam sát ở các phương: Tị, Ngọ, Mùi
- Năm Tị, Dậu, Sửu tam sát ở các phương: Dần, Mão, Thìn
2/- Những vị trí nên đặt giường: Gặp nhưng năm có hạn hoặc mệnh xung Thái tuế, để giảm tai họa ta nên kê giường vào những vị trí sau:
• Tuế hợp với can:
Năm Giáp ở phương Kỷ (khôn); năm Bính ở phương Tân; năm Quí ở phương Mậu (cấn); năm Nhâm ở Đinh; năm Tân ở Bính, năm canh ở Ất; năm Kỷ ở Giáp; năm Mậu ở Quí; Năm Đinh ở Nhâm; năm Ất ở Canh.
• Phương Lục hợp: cần biết hành hóa là hành gì có tị hòa hoặc sinh cho dụng thần, hỷ thần thì tốt, bằng ngược lại thì không nên dùng.
Năm Tý ở Sửu, Tý-Sửu hóa Thổ; năm Dần ở Hợi, Dần-Hợi hóa Mộc; Mạo tuất hóa Hỏa; Thìn-Dậu hóa Kim; Tị -Thần hóa Thủy; Ngọ-Mùi hóa Thổ…và ngược lại.
Chủ-môn-táo Luận về cửa chính
Trong căn nhà của chúng ta (dương trạch) nếu được bếp tốt mà phòng ngủ xấu thì cŨng không được tốt. Nếu được bếp và phòng ngủ tốt mà cửa chính (cửa thường ra vào nhà) xấu thì cũng không phải là căn nhà tốt. Cho nên khi nhập trạch vào một nhà mới thì cái cửa chính vẫn là quan trọng nhất, thứ đến là phòng ngủ và bếp. Trong “thuật phong thủy” người ta coi trọng ba cái này mà gọi là CHỦ-MÔN-TÁO.
- Chủ: là phòng chủ (phòng lớn nhất trong nhà)
- Môn: là cửa chính
- Táo: là bếp
Theo “Dương trạch tam yếu” thì người ta cho phối vị trí đặt của 1 trong 3 cái này với hướng nhà, nếu được du niên tốt (sinh khí, thiên y,…) thì tốt, còn nếu phạm vào du niên xấu (tuyệt mệnh, ngũ quỉ,…) thì phải tránh. Ngay cả cửa phòng, cửa bếp cũng phải đặt vào vị trí tốt mà tránh vị trí xấu.
Theo phong thủy “Huyền Không” thì Cửa chính là nơi nạp khí vào nhà và là cái quan trọng cần đặc biệt quan tâm. Nếu cửa chính bố trí đúng cách và được hướng tinh là vượng khí thì cho dù phòng ngủ, bếp bố trí có hơi sai một chút thì cũng không sao vì đã được “nhất chính đương quyền mà bách tà phải phục” rồi. Chỉ khi nào qua vận sau, lúc đó hướng tinh thành suy khí thì mấy anh chị này mới nổi lên “quậy” mà thôi.
- Trước hết Cửa chính hay cửa thường ra vào nhà cần bố trí ở cung hướng có hướng tinh là Tam cát hay Ngũ cát. Nếu được hướng tinh là vượng tinh thì càng tốt.
- Điều sau này là quan trọng không kém. Đó là dùng “bí quyết thành môn” để tìm cung có vượng khí của vận chúng ta đang sống mà mở cửa ngay đó. Vì có như vậy thì mới nạp được khí tốt vào nhà
Thí dụ: nhà hướng Nam 180’ vận 8 có hướng tinh 8 tại cung hướng Nam. Nay nếu mở cửa tại cung Bính thì nhà vẫn khó khăn như thường vì không nạp được vượng khí, chỉ khi mở cửa tại cung Ngọ hoặc Đinh thì mới khá được. Khi qua vận 9, tuy hướng Nam vẫn có hướng tinh là tam cát (1-6-8) nhưng nếu cửa vẫn ở Ngọ hoặc Đinh) thì tài vận lại đi xuống, nếu chuyển cửa qua Bính thì sẽ giử được tài lộc.
Trên đây là 3 vấn đề cốt lõi, gọi là CHỦ-MÔN-TÁO theo “Huyền Không”
Thông Khí Luận về Mượn / cướp khí & sự thông nhau giữa các cung
Trong các cách cục "Vượng sơn vượng hướng" thì sự tốt đẹp cho nhà cửa hoặc phần mộ chỉ được trong vận đó mà thôi (tối đa được 20 năm). Khi qua vận kế tiếp, sao hướng trở thành thoái khí nên nhà hay mộ phần trở thành suy mà tai hoạ ập tới. Nếu muốn tiếp tục phát ta phải sửa lại mộ phần hay căn nhà.
Ngoài cách cục “vượng sơn vượng hướng” mà thời gian hưng vượng ngắn ngủi ra người ta còn tìm được một số cách cục khác có sự hưng vượng lâu dài hơn, đó là các dạng nhà có sự thông nhau giữa các cung
Khi khí giữa các cung được thông nhau thì có thể mượn được khí của VẬN hoặc NGUYÊN khác về sử dụng cho vận hiện tại gần giống như những chiếc bình thông nhau. Theo một số nhà phong thủy: Nhà được thông khí thì khi vượng sẽ vượng gấp 4 lần nhà "vượng sơn vượng hướng" ( trong điều kiện của vùng đất có phong thuỷ như nhau). Nhưng theo tôi : Nhà “thông khí” không phải gấp 4 lần nhà “vượng sơn vượng hướng” mà gấp nhiều ngàn lần, Nó giống như một lỗ đen hút vật chất vậy.
http://vn.answers.yahoo.com/question...6214935AAP9t0v (http://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20080406214935AAP9t0v)
Khi nhà được thông khí, nếu vượng thì tiền tài hút vào kinh khủng có thể đến mức mà gia chủ không thể kiểm soát nổi, nhưng nếu suy thì cực suy vì lúc đó nó đã suy lại còn bị cướp mất khí nên sự suy bại không thể lường được, có thể đến tán gia bại sản.
Đối với môn phong thủy cấp cao thì người học phong thủy đều phải có lời thề với môn sư, từ đó người thầy nhận xét mà trao những chìa khóa đặc biệt theo cá tính từng người. Bởi vì người học phong thủy nếu chưa tỏ tường các môn lý số đã vội đem áp dụng thì gieo họa chứ không phải phúc. Thí dụ: một người mà mệnh số chỉ có thể sử dụng tốt ở mức 5-10 ngàn đồng, nay bất ngờ có trong tay hàng triệu, hàng tỷ thì con người đó sẽ như thế nào? Chắc chắn đây là một tai họa với người đó.
Chúng ta cần tìm tòi, học hỏi và chiêm nghiệm nhiều. Nếu có căn duyên thì sẽ gặp
Các cách cục được thông khí mà chúng ta sẽ lần lượt khảo sát qua là:
1)_ Thiên tâm thập đạo.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái.
Thiên tâm thập đạo Dùng số 10 để thông với ngũ hoàng (5) ở trung cung của cửu cung, là nơi giao hội, xuất nhập của Nhật Nguyệt mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm – Dương. Thiên tâm thập đạo có thể thông khí giữa 8 cung gọi là “thông quái” Giúp cho nhà dù ở thế suy bại ( trường hợp bị thướng sơn hà thuỷ) cũng chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc dồi dào.
Thiên-Tâm Thập-đạo chĩ áp dụng cho các sao về Vận, Tọa và Hướng mà thôi.
Có nhiều loại Hợp thập:
• Tổng số là 10 của Tọa của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9).
• Hợp thập quái: là tổng số của Tọa và Hướng ở Trung-cung là 10, chủ phát vượng nhanh
chóng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung đối xứng qua Trung-cung.
Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.
- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta thấy:
- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.
Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.
• Hợp thập số là tổng số là 10 của một cặp Tọa, Hướng hay Vận trong mổi cung xung quanh
Trung cung, chủ hương vượng. Đây là toàn cuộc Hợp-thập
1)_ Sơn tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, vận 8
2)_ Hướng tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
Thí dụ:
nhà toạ Ngọ hướng Tý vận 7
Bất kể sự kết hợp giữa hướng tinh với vận tinh hay giữa sơn tinh với vận tinh thì khi đã được thiên tâm thập đạo thì toàn bàn đã được thông khí, 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại.
Trong cách cục Thiên Tâm Thập Đạo tuy toạ hướng có thể lâm vào tình trạng “:thướng sơn há thuỷ” tức suy bại về tài lộc và nhân đinh nhưng chỉ cần cung có sao sinh khí hoặc tiến khí được phù hợp hình thế mà trở lên vượng thì toàn bàn đều trở lên vượng mà không sợ “thướng sơn há thuỷ” nữa. Thí dụ nhà toạ TÝ hướng NGỌ vượng phát trong vận 7, qua vận 8 thì trở lên suy bại vì hướng tinh 7 đã trở thành thoái khí. Nhưng nếu cung hướng NAM (có hướng tinh 8 là vượng khí) hay cung hướng ĐÔNG BẮC (có hướng tinh 9 là sinh khí) có thuỷ, trống thoáng hay đường đi hoặc cung hướng TÂY NAM (có sơn tinh 8) hay cung hướng ĐÔNG (có sơn tinh 9) có núi, đồi, nhà cao hay cây cao thì nhà này vẫn vượng phát như thường (dĩ nhiên những khu vực này cần có cửa để đón nhận vượng khí)
Thiên Tâm thập đạo có thể phá được thế Phản phục ngâm toàn bàn nếu có cửa thu vượng khí.
Ngoài ra Thiên tâm thập đạo còn cần hình thế chung quanh phù hợp thì mới được thông khí.
Tam ban quái Tam ban quái & Thất tinh đả kiếp
Các bộ số (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) được gọi là bộ số của quẻ tam ban.
Phép dùng Tam ban quái và Thất tinh đả kiếp (đả kiếp là cướp đoạt khí của tương lai) là phép dùng quẻ Tam ban để cướp đoạt khí của tương lai như Thượng nguyên thì cướp đoạt khí của Trung nguyên, Trung nguyên thì cướp đoạt khí của Hạ nguyên...
Có 3 loại tam ban quái:
1)_ Tam ban quái liên châu.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái. Trong đó lại chia làm hai loại:
a_ Ly cung đả kiếp (đả kiếp thật)
b_ Khảm cung giả kiếp (đả kiếp giả)
Tam ban quái liên châu
Liên châu tam ban quái được cho là quý trong các cuộc đặt biệt và có thể đem tới nhiều điều tốt cho chủ nhà ( dĩ nhiên là loan đầu phải phù hợp ). Có người lại cho rằng Tam ban quái liên châu chỉ tốt được vài năm đầu, sau đó là suy bại. Đó là họ chưa biết cách kích hoạt cho thông khí mà thôi.
Liên Châu Tam Ban Quái là cuộc bao gồm 9 cung mổi cung đều có sơn tinh, vận tinh, và hướng tinh liền nhau. 3 sao liền nhau , tức là 3 sao đều là (1-2-3) hoặc (2-3-4) hoặc (3-4-5) hoặc (4-5-6) hoặc (5-6-7) hoặc (6-7-8) hoặc (7-8-9) hoặc (8-9-1)
Thí dụ:
Tam ban xảo quái
Tam ban xảo quái là trong mổi cung đều xuất hiện một trong các bộ số tam ban (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9)
Thí dụ:
Cũng gần giống như các cuộc thiên tâm thập đạo. Các cuộc Tam ban quái liên châu và Tam ban xảo quái tuy có thể phạm vào cuộc “thướng sơn há thuỷ”, nhưng chỉ cần một cung hướng vượng và một cung sơn vượng thì toàn bàn đều vượng (dĩ nhiên vẫn cần có cửa để thu nhận khí ờ các cung vượng này). Còn nếu không được cung nào vượng thì thật là nguy hiểm, vì lúc đó khí bị cướp đi hết mà sinh ra tai hoạ khó lường
Phụ mẫu tam ban quái
Còn gọi là THẤT TINH ĐẢ KIẾP. Khi các hướng tinh thuộc bộ số tam ban: (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) phân bổ vào các cung lần lượt là LY-CHẤN- CÀN và KHẢM –ĐOÀI-TỐN kết hợp với cặp song tinh là vượng tinh ở đầu hướng thì đây là phép thất tinh đả kiếp.
Điều cần biết là vị trí của các số trong mỗi nhóm cung định chiều quay của khí trong nhóm này, chẳng hạn như các sao Hướng của nhóm Khảm là Đoài, Khảm và Tốn có số hướng tinh xắp theo thứ tự là (1,4, 7) cho biết chiều quay của khí trong nhóm này là theo chiều kim đồng hồ. Chiều quay của khí trong nhóm Ly phải theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiều khí này phải ngược với nhau để có thể được coi là đồng liệt. Như vậy trường hợp trên đây được coi như có 2 bộ số tam ban .
Thí dụ 1:
Thí dụ 2:
Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: LY-CHẤN-CÀN thì đây là LY cung đả kiếp (phép đả kiếp thật)
_ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: KHẢM-ĐOÀI-TỐN thì đây là KHẢM cung giả kiếp (phép đả kiếp giả)
Sau đây là một vài loại Thất Tinh Đả Kiếp khác:
• Các sao Tọa và Hướng của các cung tọa và hướng hợp thành 2 cặp số của Thất Tinh Đả cuộc hợp thành quẻ Tam ban tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Tam ban quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng Khôn.
Kiếp.
• Các sao Tọa và Hướng của mổi cặp cung tọa và hướng có các số cung hợp với nhau thành
một cặp số sinh thành của Hà đồ như là (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). Cả 4 sao của các cặp
cung này hợp lại thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp như thí dụ trên.
• Cả 4 sao Tọa và hướng của mổi cặp cung đối xứng nhau qua Trung-cung hợp nhau thành 2
cặp số Thất Tinh Đả Kiếp.
Ngoài ra còn có trường hợp Toàn bàn Thất Tinh Đả Kiếp mà người ta còn gọi là Tam-Ban Xảo quái (đã khảo sát ở phần trên).
Điều quan trọng cần chú ý là các phép MƯỢN KHÍ làm khí trong nhà được đưa lên rất cao nên có thể đưa tất cả các điều tốt xấu lên cao độ khiến cho rất thịnh vượng hoặc rất suy bại tùy theo tình trạng phong-thủy tốt xấu. Như vậy, khi Ngũ-hành của sao và cung kỵ nhau, kỵ thủy và kỵ sơn, ta vẫn phải tìm cách giải cho thỏa đáng để triệt tiêu cho bằng hết tất cả chuyện xấu.
Trong phép THẤT TINH ĐẢ KIẾP thì những điều kiện sau đây cũng cần có:
1)_ Hướng tinh hoặc sơn tinh là sinh vượng khí cần được đắc cách
2)_ Ngũ-hành trong các cung đều phải sửa đổi cho tốt.
3)_ Kỵ Sơn và thủy cũng cần phải giải quyết cho thỏa đáng ở các nơi cần thiết.
4)_ Hình thế bên ngoài phải không kỵ hay được an bày để không kỵ.
5)_ Không bị Tù tức là vượng tinh của hướng không được nằm trong Trung-cung (trường hợp tam ban xảo quái và các trường hợp khác)
Hậu quả có thể vô cùng tai hại nếu các điều kiện trên không đuợc toàn chỉnh.
Tác giả VanHoai (huyenkhonglyso.com)
PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN
Xác định tọa hướng nhà:
Theo độ số mà ta đã đo áp dụng vào sơ đồ ta sẽ xác định được tọa hướng nhà
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=14&d=1341059581&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=14&d=1341060294)
Lường Thiên Xích : Là hướng bay của cửu tinh khi có một sao nhập trung cung
Lường Thiên Xích Thuận
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=16&d=1341060597&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=16&d=1341060597)
Lường Thiên Xích Nghịch.
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=17&d=1341060731&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=17&d=1341060731)
Hậu Thiên Bát quái
Sơn & Hướng:
Hậu thiên bát quái được chia thành tám hướng đều nhau, mỗi hướng chiếm 45 độ trên la bàn và đi với một số của cửa tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa
Mỗi hướng lại chia thành 3 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ:
- Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
- Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
- Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
- Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
- Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
- Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
- Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
- Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Độ số chính giữa của mỗi sơn : sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Độ chính giữa (+)(-) 3 độ thì gọi là chính hướng. Còn (+)(-) trên 3 độ thì gọi là kiêm hướng.
Tam nguyên long:
Tam nguyên long gồm có : Thiên nguyên long, nhân nguyên long và địa nguyên long
@ THIÊN NGUYÊN LONG: có 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
@ ĐỊA NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
@ NHÂN NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Dựa vào tính chất âm dương của tam nguyên long mà ta sẽ biết được lường thiên xích đi thuận hay đi nghịch.
Phương pháp lập tinh bàn:
1 - Vận bàn:
Thời gian được chia làm 3 nguyên, gồm: thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Mỗi nguyên lại chia làm 3 vận. Mỗi vận là 20 năm
- Thượng Nguyên gồm : Vận 1, 2, 3. Tổng cộng là 60 năm
- Trung nguyên gồm : vận 4, 5, 6. Tổng cộng 60 năm
- Hạ nguyên gồm : Vận 7, 8, 9. Tổng cộng 60 năm
Tổng 3 nguyên là 180 năm. Hết hạ nguyên lại tới thượng nguyên.
Chúng ta đang sống trong hạ nguyên;
- Vận 7 từ 1984 đến 2003
- Vận 8 từ 2004 đến 2023
- Vận 9 từ 2024 đến 2063
Đến vận của sao nào thì lấy sao đó nhập trung cung, xác định các sao khác theo vòng lường thiên xích thuận
Thí dụ: Nay ta đang ở vận 8. Lấy 8 nhập trung cung bay thuận ta được vận bàn
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=20&stc=1&thumb=1&d=1245830385 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=20&d=1245830385)
2 - Hướng bàn: Sau khi có vận bàn ta lấy số ở hướng cho nhập trung cung, rồi cho bay thuận hay nghịch theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy cùa sao ấy.
Thí dụ 1: nhà tọa Càn hướng Tốn, Hướng có sao số 7, lấy 7 nhập trung cung, Tốn là thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7 bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên phải của vận tinh)
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=19&d=1341061272&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=19&d=1341061272)
3 - Sơn bàn: "Sơn" chỉ khu vực sau nhà , tức phương toạ. Lấy số của vận bàn tại phương toạ đem nhập trung cung, để ở góc bên trái. Xem phương toạ là sơn gì? Thuộc tam nguyên long nào? Thí dụ : toạ càn thuộc thiên nguyên long.Tiếp theo coi số của vận tinh thuộc tam nguyên long đó tính chất âm dương là gì? Nếu là dương thì theo lường thiên xích thuận còn nếu là âm thì theo lường thiên xích nghịch Thí dụ : Vận 8 vận tinh tại càn là 9. Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung cung bay nghịch.
http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=20&d=1341061363&thumb=1 (http://kimtubinh.net/attachment.php?attachmentid=20&d=1341061363)
Tóm tắt
- lấy số của vận bàn tại toạ hoặc hướng nhập trung cung.
- Nếu là thiên hoặc nhân nguyên long: Số chẵn bay thuận, số lẻ bay nghịch.
- Nếu là địa nguyên long: Số chẵn bay nghịch, số lẻ bay thuận
Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Phần II của Phong thủy Huyền Không Phi Tinh vì có một phần liên quan tới dịch quái, cho nên tôi đang hoàn thiện phần dịch quái để đưa lên trước (sẽ cố gắng đưa lên càng sớm càng tốt) rồi mới tiếp tục phần II được.
Năm mới chúc các bạn một năm Nhâm Thìn an lành, hạnh phúc và đặc biệt nghiên cứu học thuật càng ngày càng tấn tới.
VanHoai (huyenkhonglyso.com)
bao giờ thì a pot tiếp phần 2 a sonthuy ơi? cảm ơn a đã vất vả pót sách lên diễn đàn!
HUYỀN KHÔNG PHI TINH
PHẦN II
Phần II gồm có:
Đồng nguyên long
Thành môn nhất quyết tối vi lương,
Thành môn dụng thần
Trực hướng 14 cục
Huyền không nhập tù chi bí
Huyền không mạng cung và 24 sơn hướng
Bát sát hoàng tuyền
Ải tinh bài long quyết
Nạp giáp
Hướng thủ nhất tinh tại phúc bính, khứ lai nhị khẩu tử sinh môn
Hoán bộ di cung-nhất vật nhất thái cực
Văn xương và văn bút
Huyền không phản phục ngâm quái
Luận tuyến độ phản ngâm phục ngâm
Huyền Không và các cặp Tiên thiên
24 sơn phân thuận nghịch, cộng thành 48 cục
Cửu tinh & 24 cung hỗ sinh
48 cục vận 7 luận giải
48 cục vận 8 luận giải
Huyền Không phi tinh kết hợp 64 quái ải tinh pháp luận giải
Nhân đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè thân hữu gần xa đã tặng, cho tài liệu để chúng ta có được những kiến thức quí báu ngày hôm nay.
VanHoai (huyenkhonglyso.com)
Đồng nguyên long
Chúng ta đã biết 8 hướng được chia thành 24 sơn và đều có phân định âm dương và mỗi hướng lại chia làm 3 nguyên, trong đó bài theo chiều thuận thì địa nguyên, thiên nguyên rồi đến nhân nguyên. Thiên nguyên là phụ mẫu, Nhân nguyên là thuận tử và địa nguyên là nghịch tử. Mỗi nguyên được an vào 8 sơn trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm;
Thiên nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN
• 4sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU
Địa nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI
Nhân nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: DẦN THÂN TỊ HỢI
• 4 sơn âm : ẤT TÂN ĐINH QUÍ
Khi bài sơn thủy hoặc mở cửa, phân phòng cho âm dương nhị trạch thì điều tối quan trọng là cần đồng nguyên long với nhau. Như nhà có hướng là thiên nguyên long thì bài hình thế sơn thủy, mở cổng cửa cũng cần ở trong các cung của thiên nguyên long trong 8 hướng thì mới phát huy tác dụng mạnh nhất. Trong trường hợp bất khả kháng thì chỉ có thể an vào nhân nguyên long (thuận tử) còn tuyệt đối tránh các sơn là địa nguyên long (nghịch tử). Địa nguyên long thì chỉ có thể bài vào các sơn địa nguyên long còn không thể an vào thiên hay nhân nguyên long. Nhân nguyên long thì an vào các sơn nhân nguyên long, nếu trong trường hợp bất khả kháng có thể an vào thiên nguyên long còn không thể an vào địa nguyên long.
a sơn thủy, khi mình bày trí hòn non bô phong thùy, nên theo hướng bàn hay niên bàn? vì sơn quản đinh, thủy quản tài??? thì thì lúc đó hòn non bộ ta bày theo sơn bày hay hướng bàn hay niên bàn của 1 năm? vì công ty em có mời 1 thầy phong thủy đặt hòn non bộ ở hướng tây nam, năm 2010 hướng tây nam linh thần thủy của vận bát bạch ??
a sơn thủy, khi mình bày trí hòn non bô phong thùy, nên theo hướng bàn hay niên bàn? vì sơn quản đinh, thủy quản tài??? thì thì lúc đó hòn non bộ ta bày theo sơn bày hay hướng bàn hay niên bàn của 1 năm? vì công ty em có mời 1 thầy phong thủy đặt hòn non bộ ở hướng tây nam, năm 2010 hướng tây nam linh thần thủy của vận bát bạch ??
Chào bạn Ngocnhan
Bài trí hòn non bộ phong thủy không đơn giản như mọi người thường nghĩ đâu vì không cẩn thận làm hỏng cả PT. Đặt phía trước nhà cần theo Hướng Bàn, nếu hướng Tinh là vượng khí nên làm Đài phun nước (Vận 8 hướng Tinh 8,9,1 là tốt), nếu hướng Tinh suy tử khí 2,3,4,5 không nên đặt gì cả, tại sao không đặt Sơn? Núi cần xa nhà 1 chút mới tốt.
Theo HKPT Linh thần Vận 8 tại Tây Nam, có đặt "THỦY" được hay không thì phải xem có hướng Tinh là vượng khí mới được còn suy tử thì không nên, không phải cứ thấy Linh thần là đặt Nước được đâu.
kính gửi a Sơn thuỷ, vậy đối với các ngôi nhà chung cư, cách mặt dất khoảng 30 m khoảng lầu 6, trở lên thì cách bài trí trên còn đúng hay không? hay lúc đó ta chỉ theo vận của phi tinh theo từng năm thôi???
kính gửi a Sơn thuỷ, vậy đối với các ngôi nhà chung cư, cách mặt dất khoảng 30 m khoảng lầu 6, trở lên thì cách bài trí trên còn đúng hay không? hay lúc đó ta chỉ theo vận của phi tinh theo từng năm thôi???
Nhà chung cư, cách mặt dất khoảng 30 m khoảng lầu 6, trở lên lúc đó Ngoại Loan đầu có thể không tính được thì tính Nội loan đầu (trong nhà). Tính theo HKPT thì Tinh Bàn quan trọng nhất nên vẫn tính Sơn tinh, Hướng tinh mà bài trí cửa, bếp, phong thủy luân...nhà chung cư dù là tầng thứ mấy cũng chịu ảnh hưởng của từ trường Trái Đất và các Tinh tú trong hệ Mặt Trời. Bạn muốn bài trí PT theo Niên Tinh thì cũng phải hợp với Tinh Bàn.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.