View Full Version : Địa Chi Hóa Hợp
Địa chi hợp và hóa cũng tương tự như thiên can, các điều kiện đều có nguyên tắc chung và biệt lệ, đại đồng tiểu dị. Tổng trạng là Hóa thần phải cường vượng hữu lực, tức là phải có Khí. Ở thiên can là cần địa chi trợ lực, tại địa chi thì cần thấu can hữu căn. Nếu hành muốn hóa là dụng thần mà không hóa được thì thường bị gọi là "hư phù" (đồng nghĩa với Không Vong), giảm lực của cả hai địa chi, thậm chí vô lực. Ngược lại, nếu hành hóa là kị thần mà bị cản trở thì phản hung thành cát.
1. Lục Hợp
- Tí Sửu
- Dần Hợi
- Tuất Mão
- Thìn Dậu
- Tị Thân
- Ngọ Mùi
Môn Tử Bình chú trọng đến Khí Lực nên việc xét đoán thấu can, hữu căn là tối trọng yếu. 5 cặp thiên can và 6 cặp địa chi muốn hợp và hóa được đều phải theo nguyên tắc này, mà trọng tâm chính là Lệnh Tháng.
Nguyên tắc chung: Tương cận (2 trụ gần nhau), thấu hành hóa khí là hóa:
năm
tháng
ngày
giờ
Giáp
Kỉ
Tí
Sửu
Chú ý 1: Có quan sát của hành hóa khí thì không hóa. Như Tí Sửu có Mậu thấu can, nhưng Ất là Mộc khắc Thổ cản trở.
năm
tháng
ngày
giờ
Mậu
Ất
Tí
Sửu
Chú ý 2: Địa chi bị hợp hay bị xung thì không hóa. Như Tí bị Ngọ xung, Sửu bị Mùi hợp:
năm
tháng
ngày
giờ
Mậu
Ất
Ngọ
Tí
Sửu
Mùi
2. Tam hợp cục/Tam hội phương
Chỉ cần không có quan sát của hành hóa khí là Hóa Thành, như hóa Thủy thì không có Thổ (30.12.1992)
năm
tháng
ngày
giờ
Nhâm
Nhâm
Canh
Đinh
Thân
Tí
Thìn
Hợi
Chú ý 1: Tam hợp phải có trung thần (như Tí là trung thần của tam hợp thủy, Mão là trung thần của tam hợp Mộc); nếu không có trong mệnh cục mà tứ trụ có điều kiện gần hóa thành thì hóa được ở đại vận có trung thần. Như Thân-Thìn gần nhau, thiếu Tí, tứ trụ không có Thổ, đến vận Tí (ngoại trừ Mậu Tí) thì hóa Thủy.
Chú ý 2: Mặc dù địa chi tam hợp lại sinh tháng có Hóa thần, như Tị Dậu Sửu sinh tháng Dậu, nhưng thiên can có Hỏa, trụ giờ Hỏa có căn thì không thể hóa, hoặc gọi là "Giả hóa". (17.9.1977)
năm
tháng
ngày
giờ
Đinh
Kỉ
Đinh
Ất
Tị
Dậu
Sửu
Tị
Nếu Hỏa thấu nhưng vô căn thì hóa Kim thuận lợi. Như tứ trụ dưới đây, Bính trong Tị không còn là căn của Đinh trụ giờ, vì Tị Dậu Sửu là tam hợp Kim hoàn toàn. (14.5.1815)
năm
tháng
ngày
giờ
Ất
Tân
Tân
Đinh
Sửu
Tị
Dậu
Dậu
Tựu chung, khi luận Hóa được hay không, cần chú ý hành khắc chế hành đang muốn hóa. Lệnh tháng ưu tiên xét trước, sau đến trụ giờ. Như hóa Mộc thì tháng Thân Dậu là khả năng bất hóa cao nhất.
Nói là "hóa" không phải theo nghĩa biến hẳn sang trạng thái mới, mà chỉ là ngũ hành hóa khí thành công là cực vượng, chiếm chủ động trong nguyên cục và thân nhược. Hợp Hóa này khác hẳn Ngoại Cách (Nhuận Hạ, Giá Sắc, Khúc Trực, Viêm Thượng, Tòng Cách) mà thân là vượng.
* (Đừng nhầm Tòng Cách Kim là ngoại cách với loại Tòng theo cách cục)
Tựu chung, khi luận Hóa được hay không, cần chú ý hành khắc chế hành đang muốn hóa. Lệnh tháng ưu tiên xét trước, sau đến trụ giờ. Như hóa Mộc thì tháng Thân Dậu là khả năng bất hóa cao nhất.
Nói là "hóa" không phải theo nghĩa biến hẳn sang trạng thái mới, mà chỉ là ngũ hành hóa khí thành công là cực vượng, chiếm chủ động trong nguyên cục và thân nhược. Hợp Hóa này khác hẳn Ngoại Cách (Nhuận Hạ, Giá Sắc, Khúc Trực, Viêm Thượng, Tòng Cách) mà thân là vượng.
Xin chân thành cảm ơn kimcuong đã viết mục này. Bài bạn viết rất ngắn gọn xúc tích. Phần xác định là hợp hóa thành công hay không mình đã rõ. Còn phần cuối cùng, tác động của việc hợp hóa với thân sẽ ra sao. Cụ thể:
1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.
2. Tam hợp hay hội cục thành công thì đều không tốt phải không, vì nó làm cho Thân được sinh vượng quá hay khắc thân mạnh quá.
3. Trong đại vận, lưu niên nó sẽ ảnh hưởng như thế nào, phần này tôi vẫn không nghĩ ra. Ví dụ: Nếu nguyên cục là "Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa thành", đến lưu niên Dần cũng chỉ làm tăng mạnh hợp hóa. Còn nếu đến lưu niên Thân, thì liệu Dần Thân tương xung có phá được tam hợp không thì thật sự tôi chưa rõ.
Rất mong được sự trả lời của kimcuong và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn kimcuong đã viết mục này. Bài bạn viết rất ngắn gọn xúc tích. Phần xác định là hợp hóa thành công hay không mình đã rõ. Còn phần cuối cùng, tác động của việc hợp hóa với thân sẽ ra sao. Cụ thể:
1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.
2. Tam hợp hay hội cục thành công thì đều không tốt phải không, vì nó làm cho Thân được sinh vượng quá hay khắc thân mạnh quá.
3. Trong đại vận, lưu niên nó sẽ ảnh hưởng như thế nào, phần này tôi vẫn không nghĩ ra. Ví dụ: Nếu nguyên cục là "Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa thành", đến lưu niên Dần cũng chỉ làm tăng mạnh hợp hóa. Còn nếu đến lưu niên Thân, thì liệu Dần Thân tương xung có phá được tam hợp không thì thật sự tôi chưa rõ.
Rất mong được sự trả lời của kimcuong và các bạn.
Hi papillon,
Bàn loạn xíu về câu hỏi của bạn nhé,
1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.
tam hợp, tam hội của chi cần có can lộ dẫn mới thể hiện được uy lực của nó. Nếu không có can dẫn lộ thì uy lực này không hiện rõ. Các can tàng chi vẫn thế không bị mất. Giả sử nếu mất như bạn đề cập ,chi đó sẽ không tồn tại thì khí hội hợp đó sao thể hiện ra được. Không nói còn vài tính chất mà nên nói tam hội, hợp này là điểm nhấn khi luận trụ vì trường hợp này không phải ngoại cách như viêm thượng, tòng cách....
2. Tam hợp hay hội cục thành công thì đều không tốt phải không, vì nó làm cho Thân được sinh vượng quá hay khắc thân mạnh quá.
Đôi khi khi nhập môn tử bình sách vẫn theo phương pháp trung hòa ngũ hành làm chuẩn. Nhưng nếu tìm hiểu nâng cao mới nghiệm lý được khi trụ tồn tại độc hành(một hành làm chủ) mới thấy nhiều điểm hay. Tốt hay xấu không bàn tới như Vua Quang Trung một thời chinh đông dẹp bắc vậy mà đâu có giữ được lâu cái khí thế đó.
3.Trong đại vận, lưu niên nó sẽ ảnh hưởng như thế nào, phần này tôi vẫn không nghĩ ra. Ví dụ: Nếu nguyên cục là "Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa thành", đến lưu niên Dần cũng chỉ làm tăng mạnh hợp hóa. Còn nếu đến lưu niên Thân, thì liệu Dần Thân tương xung có phá được tam hợp không thì thật sự tôi chưa rõ.
Như bạn nói nguyên cục dần ngọ tuất tam hợp hỏa, nếu gặp lưu niên dần, ngọ, tuất sẽ trợ hỏa. Gặp lưu niên thân xung dần, nguyên cục tam hợp bị thương hay gặp tý hợi nhâm quý chế hỏa cũng có tai biến. Điểm này bạn nên nghiệm lý nhiều mới rút được kinh nghiệm vì tùy theo trụ có trường hợp giải cứu.
1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.
NẾU XUNG THÌ CAN TÀNG TAN KHÍ CÒN LẠI BẢN KHÍ, GỌI LÀ KHỬ BÌ, NHƯNG HỢP THÌ CAN TÀNG KO TAN MẤT MÀ HƯỚNG VỀ HÓA THẦN, TỨC TÔI VẪN TỒN TẠI, CÒ ĐIỀU TÔI ỦY QUYỀN CHO HÓA THẦN LÀM VIỆC, GIAO TIẾP, QUAN HỆ,...
2. Tam hợp hay hội cục thành công thì đều không tốt phải không, vì nó làm cho Thân được sinh vượng quá hay khắc thân mạnh quá.
CÁI NÀY CÒN TÙY, TÙY 8 CHỮ TRONG TRỤ NỮA, TÙY CẢ ĐẠI VẬN, LƯU NIÊN THÌ MỚI PHÁN ĐƯỢC TỐT HAY XẤU. NHƯNG NÓI CHUNG LÀ LẬN ĐẬN, CỰC THÂN, CÒN THÀNH CÔNG, PHÁT ĐẠT THÌ PHẢI CỰC KHỔ RỒI, KHÓ MÀ AN NHÀN,... NGƯỜI CÓ TAM HỢP CỤC PHẢI LĂN LỘN NHIỀU ĐỂ TÌM KIẾM THÀNH CÔNG.
3. Trong đại vận, lưu niên nó sẽ ảnh hưởng như thế nào, phần này tôi vẫn không nghĩ ra. Ví dụ: Nếu nguyên cục là "Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa thành", đến lưu niên Dần cũng chỉ làm tăng mạnh hợp hóa. Còn nếu đến lưu niên Thân, thì liệu Dần Thân tương xung có phá được tam hợp không thì thật sự tôi chưa rõ.
ẢNH HƯỞNG RA SAO PHẢI QUY VỀ DỤNG THẦN VÀ CÁCH CỤC, HỶ DỤNG NHƯNG CÓ BỊ HỢP HÓA, XUNG HÌNH HAY KO, CÓ LÀM "BIẾN CÁCH" HAY KO...
CÓ MỘT TỨ TRỤ TÔI BIẾT RÕ:
MẬU GIÁP CANH ĐINH
NGỌ DẦN TUẤT SỬU
ĐV: ẤT MÃO / BÍNH THÌN / ĐINH TỴ / MẬU NGỌ / KỶ MÙI / CANH THÂN / TÂN DẬU/ NHÂM TUẤT
SÁT TÀNG QUAN THẤU, LỘ ẤN HÓA SÁT, NHƯNG SÁT QUAN QUÁ MẠNH, KHÓ HÓA ĐƯỢC SÁT, TÙY VẬN MÀ PHẢI TÒNG SÁT.
(LÚC TRƯỚC NGƯỜI NÀY CHƯA NẮM ĐƯỢC Ý LỜI GIẢI CỦA CHỊ KIM CƯƠNG, NỬA NĂM NAY NGẨM NGHĨ RẰNG 8 CHỮ NÀY TÒNG THÔI, NÊN SỬU LÀ KỴ THẦN, LẠI LÀ MỘ CỦA QUAN VÀ THÂN NỮA NÊN RẤT KỊ CHỮ SỬU. NẾU NÓI ẤN LÀ DỤNG THẦN THÌ GẶP SỬU PHẢI NGON, NGẪM LẠI THẤY CHỊ KC NÓI ĐÚNG, TRỤ NÀY PHẢI TÒNG. GIỜ ĐÃ THẤY BÍNH ĐINH LÀ DỤNG THẦN THÌ MỚI NGỘ RA LÀ TẠI SAO ĐẾN CÁC NĂM/ĐẠI VẬN BÍNH ĐINH THÌ ĐẸP VẬY, MÀ GẶP MẬU KỶ THÌ BÈO ... )
BẠN HỎI VẬN DẦN/LƯU NIÊN DẦN CÁC NĂM TRÊN ĐỀU TỐT CẢ (VÌ LÀ THẾ CỦA DỤNG THẦN) , SỬU LÀ KỴ THẦN-->XẤU, VỪA QUA SỬU LÀ ĐẾN DẦN THÌ LẬP TỨC THẤY CẢI THIỆN RÕ RỆT HÒAN CẢNH CỦA NĂM NGOÁI (TỨC NĂM KỴ THẦN VỪA QUA).
VẬY HỎA LÀ DỤNG, TỨC BÍNH ĐINH, BẠN THẮC MẮC VẬY TÝ HỢI, NHÂM QUÝ CÓ XẤU KO ? TÔI NGHIỆM RA RẰNG, CƠ BẢN LÀ XẤU NHƯNG VÌ TRỤ TRÊN CÓ GIẢI, GẶP TÝ THÌ XUNG NGỌ, NHƯNG CÓ SỬU HỢP, GẶP HỢI THÌ CÓ DẦN HỢP, GẶP NHÂM THÌ CÓ ĐINH HỢP, GẶP QUÝ THÌ CÓ MẬU HỢP,... VẬY LÀ : "TƯỞNG XẤU MÀ KO XẤU" !
NHƯNG:
CÁC VẬN/NIÊN MÀ GẶP 4 CHI/CAN TRÊN TUY CÓ GIẢI NHƯNG GIẢI Ở MỨC NÀO, CÁI NÀY PHỤ THUỘC CAN ĐẦU VÀ CĂN GỐC CỦA VẬN/NIÊN
VÍ DỤ NHƯ VẬN/NIÊN QUÝ KỴ THẦN, NHƯNG GẶP QUÝ TỊ / QUÝ SỬU KHÁC VỚI QUÝ HỢI, VÌ TUY QUÝ HỢP VỚI CAN NĂM LÀ MẬU, NHƯNG QUÝ TỊ, QUÝ SỬU DỄ HỢP HƠN VÌ QUÝ MẤT GỐC, CÒN QUÝ HỢI THÌ CÓ Ý HỢP MÀ KO HỢP ĐƯỢC VÌ QUÝ CÓ GỐC MẠNH TẠI HỢI.
Tam hợp hay tam hội mà đạt hóa cách như trên thì chủ yếu luận 1 tính chất là vượng, dĩ nhiên nó lấn át các tính chất khác. Nếu gặp thuận lợi cho tính cách đó thì nhật chủ cảm thấy dễ dàng hơn trong cuộc sống, còn nghịch thì tất phải đau đầu nhiều. Phần đông sẽ thấy muốn tránh né, không đối đầu phản ứng. Vì sao? Vì thân bản chất là nhược. Chính vì thế mới cần phân biệt với các ngoại cách cũng có tam hợp, tam hội mà thân vượng.
Thí dụ của Nhật Hoa thì khá rõ là Dần Ngọ Tuất tam hợp có Đinh thấu, tức Hỏa vượng. Các ngũ hành trong 3 địa chi đó hòa vào nhau nâng tính cách của Hỏa thành chủ yếu, không nói là "mất". Nếu không có Sửu và Mậu thấu thì cặp tam hợp này là thanh thuần. Nhưng Thổ trong tam hợp thấu ra, giống như là muốn tự mình độc lập vậy, không muốn hòa nhịp cùng Hỏa nữa, nên cách cục giảm thanh là vậy. Sửu và Tuất lại hình nhau, nên rõ ràng là tam hợp Hỏa khó bề hoàn hảo.
Phúc khí ở thí dụ này là Giáp thấu, tức là tâm điểm của Dần lộ rõ ràng. Nhưng oái ăm là Mậu kề bên, tức Tài tinh luôn luôn phải "trị" Ấn. Năm nào Thổ hoàn toàn làm chủ như Kỉ Sửu thì Tài giảm. Sang Dần thì tam hợp Hỏa và nhật chủ khá vượng nên cảm thấy dễ giải quyết các việc trong đời sống.
Vì thế, phá được tam hợp không phải chỉ là ngũ hành xung đối như Thủy và Hỏa mà còn là những kết cấu trong tứ trụ, phải tùy trường hợp mà xét.
Ngoài ra, nên nhận ra thế này: Canh kim nhược, Ấn tinh mạnh. Nếu chỉ là thân nhược hỉ Thổ Kim thì thật là rõ và quí. Thế nhưng vì tam hợp hình thành nên bỏ Ấn dùng Sát. Tính cách này khác với "ấn hóa sát" (chủ yếu là Quan Sát cách). Đã "bỏ" mà còn "lưỡng lự", có thể nói là như vậy. Đây cũng là 1 loại "kiêm cách", tức là giữa "tòng" (vì hóa) và thân nhược nhưng bất phục tòng!
Cảm ơn Chung, NhatHoa và KimCuong đã trả lời cho mình rất chi tiết.
Mình xin hỏi thêm mọi người thông tin thêm về người này:
MẬU GIÁP CANH ĐINH
NGỌ DẦN TUẤT SỬU
1. Cho mình hỏi NhatHoa để rõ thêm, nhìn chung các đại vận Bính Đinh thì cuộc sống và kinh tế người này tương đối thuận lợi phải không, có gặp họa khi thắng lợi không.
- Vì cách nghĩ thông thương, Sát vượng sẽ bảo hộ Tài lại sinh thêm Ấn, nhưng Vì Sát vượng mà thân nhược nên dễ gặp họa.
- Còn theo KimCuong nhận định: "Nếu gặp thuận lợi cho tính cách đó thì nhật chủ cảm thấy dễ dàng hơn trong cuộc sống" tức là các năm/Đại Vận Bính Đinh Hỏa thì người này cuộc sống thuận lợi (chủ yếu mặt gì, có bị họa ít nhiều ko do Sát vượng thân nhược, hay Sát sẽ là Dụng thân hoàn toàn như bạn nói ở trên).
2. "Còn các năm/Đại Vận Mậu Kỷ thì bèo" nghĩa là các năm đó không thuận lợi về tiền bạc, nhưng lại được yên ổn ko thương tật ... có phải không.
Vì: Cách nghĩ thông thường, thân nhược được Mậu Kỷ ấn sinh Thân, nên sẽ yên ổn nhưng vì Giáp Tài ngay sát bên khắc chế, nên Tài bị giảm đi nhiều.
Theo KimCuong nhận định: Các năm/Đại Vận Mậu Kỷ thì tam hợp bị giảm đi rất nhiều --> hơp cục Quan Sát bị phá sẽ gây ra chuyện gì.
Xin chân thành cảm ơn.
1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.
Rất mong được sự trả lời của kimcuong và các bạn.
Theo em hiểu thì trong mỗi Địa Chi đều tàng ẩn trong nó các phần Bản khí, Trung khí và Dư khí, việc tam hợp hóa hay hội cục cũng chính là xác định xem phần khí nào có lực mà nổi trội lên.
Như ví dụ của Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa Hỏa.
Bản khí
Trung khí
Dư khí
Dần
Giáp
Bính
Mậu
Ngọ
Đinh
Kỷ
Tuất
Mậu
Tân
Đinh
Có thể hiểu bản chất vốn có trong các Chi là Bản khí luôn nắm quyền lực chính, nhưng khi gặp điều kiện nào đó ví dụ như tam hợp hóa thì khi đó trong Dần (Trung khí tạm thời lên nắm quyền), Tuất (Dư khí tạm thời lên nắm quyền), các phần khí còn lại tạm thời không có quyền lực gì. Tất nhiên là những phần khí còn lại không bị "mất" mà chỉ là tạm thời không có quyền lực, nên bất cứ anh nào khi gặp điều kiện phù hợp thì đều có thể chủ động lên nắm quyền, từ đó mà ta có sự biến hóa hợp lý trong luận đoán, do đó nói người có hợp hóa thường hay biến đổi thăng trầm là vậy.
ví dụ như tam hợp hóa thì khi đó trong Dần (Trung khí tạm thời lên nắm quyền), Tuất (Dư khí tạm thời lên nắm quyền),Tất nhiên là những phần khí còn lại không bị "mất" mà chỉ là tạm thời không có quyền lực, nên bất cứ anh nào khi gặp điều kiện phù hợp thì đều có thể chủ động lên nắm quyền, từ đó mà ta có sự biến hóa hợp lý trong luận đoán, do đó nói người có hợp hóa thường hay biến đổi thăng trầm là vậy.
Hi Anluong,
kiêu.......tài........nhật........quan
MẬU.... GIÁP.... CANH..... ĐINH
NGỌ.... DẦN..... TUẤT...... SỬU
Như bản liệt kê tam hợp hỏa dần-ngọ-tuất của bạn.Chúng ta thấy được hỏa được thể hiện mà không phải thổ có thể do nhật chủ sinh tháng dần, nếu sinh tháng tuất ta luận thổ làm chủ có đúng với lý luận tam hợp không ? Trong khi đó thổ cũng T.sinh tại dần, Đ.vượng tại ngọ, Mộ khố tại tuất.
Về lý luận: Tam hợp hỏa(dần-ngọ-tuất) : Hỏa trường sinh tại dần, đế vượng tại ngọ, mộ khố tại tuất nên hỏa có uy lực.
Có lẽ khác nhau ở điểm cách cục của trụ.
NC canh sinh tháng dần là tài cách. Giáp tài lộ can tháng chế mậu kiêu can năm, NC không được trợ giúp có khả năng tòng hỏa.
NC canh sinh tháng tuất là thiên ấn cách. thiên ấn hóa quan trợ nhật chủ.
- Vì cách nghĩ thông thương, Sát vượng sẽ bảo hộ Tài lại sinh thêm Ấn, nhưng Vì Sát vượng mà thân nhược nên dễ gặp họa.
tại sao phải bảo hộ Tài, nếu rút khí của Tài thì sao ?
Sát vượng thân nhược dễ gặp họa không phải trường hợp tòng Sát này !?
@nhật hoa: trường hợp của bác điểm rõ nhất là ở Đinh hỏa thấu lộ và sự sắp xếp phối hợp của các can thấu ra. Điểm này rất đáng để lưu ý. Tôi có gặp 1 tứ trụ, đưa ra để các bạn dễ thấy điểm khác biệt với trường hợp khi gặp Tam hợp cục.
MẬU GIÁP NHÂM QUÝ
NGỌ DẦN TUẤT MÃO
ĐV: ẤT MÃO / BÍNH THÌN / ĐINH TỴ / MẬU NGỌ / KỶ MÙI / CANH THÂN / TÂN DẬU/ NHÂM TUẤT
điểm không tòng nhìn thấy ngay là ở Quý thấu lộ và mệnh cung Tý, song có điểm chính nữa nằm ở việc Hỏa không thấu ra...
Hy vọng các bạn có thêm ví dụ để nghiệm lý.
Hi Anluong,
Như bản liệt kê tam hợp hỏa dần-ngọ-tuất của bạn.Chúng ta thấy được hỏa được thể hiện mà không phải thổ có thể do nhật chủ sinh tháng dần, nếu sinh tháng tuất ta luận thổ làm chủ có đúng với lý luận tam hợp không ? Trong khi đó thổ cũng T.sinh tại dần, Đ.vượng tại ngọ, Mộ khố tại tuất.
hình như chung hiểu sai ý của Anluong ?
Có thể hiểu bản chất vốn có trong các Chi là Bản khí luôn nắm quyền lực chính, nhưng khi gặp điều kiện nào đó ví dụ như tam hợp hóa thì khi đó trong Dần (Trung khí tạm thời lên nắm quyền), Tuất (Dư khí tạm thời lên nắm quyền), các phần khí còn lại tạm thời không có quyền lực gì. Tất nhiên là những phần khí còn lại không bị "mất" mà chỉ là tạm thời không có quyền lực, nên bất cứ anh nào khi gặp điều kiện phù hợp thì đều có thể chủ động lên nắm quyền, từ đó mà ta có sự biến hóa hợp lý trong luận đoán, do đó nói người có hợp hóa thường hay biến đổi thăng trầm là vậy.
Tôi cũng không rõ ý này thể hiện thế nào?
Một điều không biến đổi là tam hợp đã hình thành thì không có việc "tạm thời lên nắm quyền", mà chắc chắn là ngũ hành hóa là chủ khí. Tam hợp Hỏa Dần-Ngọ-Tuất hay tam hội nam phương Tị-Ngọ-Mùi liền kề nhau, có Bính Đinh dẫn xuất, đây là chủ khí Hỏa nắm quyền chủ lực suốt cuộc đời, không có vấn đề thay đổi Thổ hay Mộc lên nắm quyền thay thế.
Chỉ có thể nói rằng khi tam hợp hay tam hội bị phá ở đại vận và lưu niên, như Tí xung Ngọ, hoặc Bính Đinh bị hợp, thì Hỏa khí giảm lực.
Cát hay hung thì tùy Hỏa là kị hay dụng, hỉ thần; Tí có bị KV hay không và có thiên can dẫn xuất hay không..v.v...
Như bản liệt kê tam hợp hỏa dần-ngọ-tuất của bạn.Chúng ta thấy được hỏa được thể hiện mà không phải thổ có thể do nhật chủ sinh tháng dần, nếu sinh tháng tuất ta luận thổ làm chủ có đúng với lý luận tam hợp không ?
Lại 1 điều nhắc nhở: Tam hợp hình thành thì dù sinh tháng nào, tháng Dần, tháng Ngọ, tháng Tuất thì vẫn luận tất cả là Hỏa. Nghĩa là sinh tháng Tuất mà gặp tam hợp Hỏa thì Tuất luận là Hỏa.
Lý luận tam hợp chính yếu nhất là TRUNG ĐIỂM của ngũ hành hóa không được bị xung hay tọa KV. Như Dần-Ngọ-Tuất mà có Tí xung, hoặc Ngọ tọa Không Vong thì không luận tam hợp nữa. Lúc này luận Dần, luận Tuất trở lại là Mộc và Thổ. Nếu có Thân xung Dần hay Thìn xung Tuất thì chỉ là trở ngại cho tam hợp Hỏa mà thôi.
Như trường hợp của thiếu bá, cung mệnh Tí xung Ngọ, lại không thấu Bính Đinh nên tứ trụ dễ trở thành tòng nhi cách. Tuy nhiên, vẫn nhìn thấy là Thực Mộc sinh Tài Hỏa là dụng, năm Thìn gặp tam hội Dần-Mão-Thìn, Thực thần hội lực ắt hẳn là làm việc nhiều hơn bình thường.
Vì thế, nếu nói người có tam hợp hóa khí mà biến đổi thăng trầm, theo tôi là vấn đề của tam hợp, tam hội đó có vững chắc ngay từ nguyên cục hay không. Sự thăng trầm là biểu hiện của tâm tánh bất thường, hay đổi ý nguyện, hoặc khó hòa nhập vào hoàn cảnh mới, sợ thay đổi...v.v... Chính do vào thời điểm bất thuận lợi nên tự cảm thấy bất an. Như vậy, có tam hợp thì một là nên rất rõ ràng, hai là tự phá cách trở về bình thường, như vậy cũng thấy rõ có tam hợp không phải luôn luôn là điều tốt.
Tôi cũng không rõ ý này thể hiện thế nào?
Bản khí
Trung khí
Dư khí
Dần
Giáp
Bính
Mậu
Ngọ
Đinh
Kỷ
Tuất
Mậu
Tân
Đinh
Có thể hiểu bản chất vốn có trong các Chi là Bản khí luôn nắm quyền lực chính, nhưng khi gặp điều kiện nào đó ví dụ như tam hợp hóa thì khi đó trong Dần (Trung khí tạm thời lên nắm quyền), Tuất (Dư khí tạm thời lên nắm quyền), các phần khí còn lại tạm thời không có quyền lực gì. Tất nhiên là những phần khí còn lại không bị "mất" mà chỉ là tạm thời không có quyền lực, nên bất cứ anh nào khi gặp điều kiện phù hợp thì đều có thể chủ động lên nắm quyền, từ đó mà ta có sự biến hóa hợp lý trong luận đoán, do đó nói người có hợp hóa thường hay biến đổi thăng trầm là vậy.
theo em hiểu ý Anluong là khi tam hợp hình thành, chẳng hạn Dần Ngọ Tuất thì:
- tháng Dần không lấy Hoả mà luận trước.
- tháng Tuất cũng lấy Hoả mà luận trước.
tất nhiên là còn có thêm điều kiện biên thuận lợi nữa, nhưng đại ý là vậy.
Như trường hợp của thiếu bá, cung mệnh Tí xung Ngọ, lại không thấu Bính Đinh nên tứ trụ dễ trở thành tòng nhi cách. Tuy nhiên, vẫn nhìn thấy là Thực Mộc sinh Tài Hỏa là dụng, năm Thìn gặp tam hội Dần-Mão-Thìn, Thực thần hội lực ắt hẳn là làm việc nhiều hơn bình thường.
hi chị, tứ trụ thiếu bá đưa ra theo em không luận theo tòng nhi. Ấn là điều kiện đảm bảo cuộc sống của người này!?
Thực chất là các năm 2010, 2011, 2012 đều dẫn đến sự thuận lợi trong công việc. Xét lại nữa thì năm 1990, 1991 học rất tốt.
năm Nhâm Thìn, Thìn Tuất xung là điều rất ứng với các sự việc biến động của đương số...
Cảm ơn Chung, NhatHoa và KimCuong đã trả lời cho mình rất chi tiết.
Mình xin hỏi thêm mọi người thông tin thêm về người này:
MẬU GIÁP CANH ĐINH
NGỌ DẦN TUẤT SỬU
1. Cho mình hỏi NhatHoa để rõ thêm, nhìn chung các đại vận Bính Đinh thì cuộc sống và kinh tế người này tương đối thuận lợi phải không, có gặp họa khi thắng lợi không.
Đúng ! nhìn chung vào vận Bính (Thìn), Đinh (Tỵ) thì rõ ràng cuộc sống dễ thở hơn rất nhiều, hồi nhỏ (trước 16 tuổi) mình bệnh rất nhiều, giờ nhớ lại là từ năm 16 tuổi (vận bính Thìn) thì tự nhiên khỏe hẳn, ko còn bệnh tật gì cả. Năm năm đầu là vận Bính, đúng là vận dụng thần nên học cực giỏi (thời điểm thiếu niên thì chỉ có học thôi mà), đến khi vào Đại học là vào vận Thìn (xung Tuất) và thìn cũng là đất lẫn bùn , kết hợp kỵ thần sửu thổ đất nhão nên thổ hối hỏa sinh kim, kết quả học tập ko như ý, tình duyên be bét (xung chi ngày là cung thê)... Nếu đại vận Bính Dần hoặc Bính Tuất đi, thì hoàn hảo hơn là thiên khắc đại xung trụ ngày.
Sang Đinh Tỵ , Đinh hỏa chỉ là thứ dụng thần thôi (vì Bính mới là chân dụng thần vì nó tàng ở nguyệt lệnh là hữu khí), nhưng Tỵ lại là lâm quan của Bính trong dần nên lại rất ok, cuộc sống tốt lên, tiền tài tuy ko vượng nhưng dồi dào, công việc cũng ok hơn, vận này lấy vợ (2007+2008) sinh con (2009).
- Vì cách nghĩ thông thương, Sát vượng sẽ bảo hộ Tài lại sinh thêm Ấn, nhưng Vì Sát vượng mà thân nhược nên dễ gặp họa.
Lý do sâu xa mà nói Sát vượng hộ Tài là do Tỷ Kiếp vượng đoạt Tài, trụ này nhược, Tỷ kiếp nhược nên ko có gì mà phải "hộ Tài". "Sát vượng sinh Ấn" , sinh quá thì thái quá , hỏa nhiều thổ nứt nẻ, đất nóng chả bao giờ sinh kim cả, Ấn vô dụng, nếu trụ có 1 chút thủy thì Ấn dùng được, cái này là cơ bản nguyên lý ngũ hành đó (thủy nhiều mộc trôi / thổ nhiều chôn kim).
Như chị KC đã nói, trụ này kiêm cách, tòng cách không bền, nên rất dễ biến cách, lúc biến lại phải luận theo biến cách, vì vậy nên long đong, lận đận, hay gặp những cái xui mà đối với người khác chả bao giờ bị.
Vì tòng Sát nên Ấn Tỉ Kiếp là kị thần nên rất kị cha, mẹ, anh em, bạn bè. Nói vài câu là cãi nhau; bạn bè thường hời hợt với mình.
Nhưng chi năm là chữ ngọ, là người mẹ, là "cùng phe" dụng thần, tuy là kị thần (ấn tinh thổ kị thần là mẹ) , cãi nhau tối ngày, nhưng cung là hỏa nên người này đc mẹ chăm sóc, yêu thương và lo tiền bạc, ăn học, giúp nhiều cho cuộc sống.
Cha là thiên tài là chữ Giáp, cũng là can năm Mậu, Mậu là kị thần, Giáp bị Canh Mậu kế bên một hao một chẻ nên cha rất xấu, bên dưới thì hỏa cục thiêu đốt nên cha mẹ ly dị, cha đang bị ung thư thời kỳ cuối, tiên liệu rất xấu trong tầm vài tháng nữa.
- Còn theo KimCuong nhận định: "Nếu gặp thuận lợi cho tính cách đó thì nhật chủ cảm thấy dễ dàng hơn trong cuộc sống" tức là các năm/Đại Vận Bính Đinh Hỏa thì người này cuộc sống thuận lợi (chủ yếu mặt gì, có bị họa ít nhiều ko do Sát vượng thân nhược, hay Sát sẽ là Dụng thân hoàn toàn như bạn nói ở trên).
Vậy bạn có nghiệm vận dụng thần thì ra sao ko, bạn có dùng tượng để đoán ko, có kết hợp lưu niên ko ? Trong vận này ko có họa gì cả, chỉ khi lưu niên xấu thì có gián đoạn chút ít, đó là năm Kỷ Sửu 2009, bị thất nghiệp hơn tháng (sửu là mộ của thân và quan tinh Đinh), nhưng sau đó thì vực dậy liền. chứ như 5 năm vận Thìn phía trước, cố lắm nhưng như bèo dạt mây trôi, trong vận này năm 1998 Mậu dần bị cha đánh gãy tay chẳng hạn (có dần là tượng xương chân tay, cũng là cha; mậu là ứng kỳ của can năm cũng là cha lại là kị thần); Mậu cũng là bản khí của đại vận thìn kị thần thấu ra ở lưu niên.
2. "Còn các năm/Đại Vận Mậu Kỷ thì bèo" nghĩa là các năm đó không thuận lợi về tiền bạc, nhưng lại được yên ổn ko thương tật ... có phải không.
Vì: Cách nghĩ thông thường, thân nhược được Mậu Kỷ ấn sinh Thân, nên sẽ yên ổn nhưng vì Giáp Tài ngay sát bên khắc chế, nên Tài bị giảm đi nhiều.
Theo KimCuong nhận định: Các năm/Đại Vận Mậu Kỷ thì tam hợp bị giảm đi rất nhiều --> hơp cục Quan Sát bị phá sẽ gây ra chuyện gì.Xin chân thành cảm ơn.
Bạn đọc các ý bên trên để rút ra câu trả lời nhé. Có một số ý đã nói rồi, như Mậu ấy, nó vô dụng rồi... Tài giảm là do cục hỏa thiêu đốt..., Tài ko có nguồn (thủy khí)... Còn những ý bạn đoán ý của chị KC thì bạn hỏi chị ấy thì tiện hơn.
MẬU GIÁP CANH ĐINH
NGỌ DẦN TUẤT SỬU
Cha là thiên tài là chữ Giáp, cũng là can năm Mậu, Mậu là kị thần, Giáp bị Canh Mậu kế bên một hao một chẻ nên cha rất xấu, bên dưới thì hỏa cục thiêu đốt nên cha mẹ ly dị, cha đang bị ung thư thời kỳ cuối, tiên liệu rất xấu trong tầm vài tháng nữa.
Các sách đều nói: Càn tạo luận về cha thì lấy thiên tài để luận. Tứ trụ này ứng với Giáp thiên tài trụ tháng, Dần Ngọ Tuất hỏa cục coi như căn gốc "quá nhẹ", Hỏa khí thiêu đốt Mộc thái quá. Đương hỏa vận nên ứng kỳ ngại nhất là gặp Dần Ngọ Tuất, trong đó Ngọ là nguy nhất vì Giáp tử...
Nhật hoa cho biết thêm là đương số ở với mẹ hay ở với bố (sau ly dị) ? Tứ trụ này quy mộ trụ giờ...
Cô Kimcuong cho hỏi sao tứ trụ này tỵ dậu lại hợp đc ạ (theo cô ghi trên thì can đinh có bính trợ phá kim cục)
Tỉ
Kiếp
Nhật chủ
Quan
Đinh Dậu
Bính Ngọ
Đinh Tị
Nhâm Dần
Tân
Đinh,Kỉ
Bính,Mậu,Canh
Giáp,Bính,Mậu
T.Tài
Tỉ,Thực
Kiếp,Thương,Tài
Ấn,Kiếp,Thương
Trường sinh
Lộc
Đế vượng
Tử
Đại vận: Ất Tị/Giáp Thìn/Quý Mão/Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỷ Hợi/Mậu Tuất
Mệnh của Lý Tri phủ, hỉ Tị Dậu hội, dẫn Tài mà gần bên lấy sinh Nhâm thủy Quan tinh, lại hỉ trụ giờ có Dần, là Tài Ấn tương tùy ( hỗ trợ theo ) vậy. Nhâm Dần Quan Ấn, Tân Sửu Canh Tý đất Tài Quan là đẹp nhất, Kỷ Hợi ở trên có khả không có ngại. Vận Mậu Tuất tất không tốt, là chỗ Thực thương lấn áp vậy.
Đây là lời bình trong tử bình chân thuyên
đường link
http://kimtubinh.net/showthread.php?358-Ch%C6%B0%C6%A1ng-46-Lu%E1%BA%ADn-Ki%E1%BA%BFn-L%E1%BB%99c-Nguy%E1%BB%87t-Ki%E1%BA%BFp-th%E1%BB%A7-v%E1%BA%ADn
Cô Kimcuong cho hỏi sao tứ trụ này tỵ dậu lại hợp đc ạ (theo cô ghi trên thì can đinh có bính trợ phá kim cục)
Tỉ
Kiếp
Nhật chủ
Quan
Đinh Dậu
Bính Ngọ
Đinh Tị
Nhâm Dần
Tân
Đinh,Kỉ
Bính,Mậu,Canh
Giáp,Bính,Mậu
T.Tài
Tỉ,Thực
Kiếp,Thương,Tài
Ấn,Kiếp,Thương
Trường sinh
Lộc
Đế vượng
Tử
Đại vận: Ất Tị/Giáp Thìn/Quý Mão/Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỷ Hợi/Mậu Tuất
Mệnh của Lý Tri phủ, hỉ Tị Dậu hội, dẫn Tài mà gần bên lấy sinh Nhâm thủy Quan tinh, lại hỉ trụ giờ có Dần, là Tài Ấn tương tùy ( hỗ trợ theo ) vậy. Nhâm Dần Quan Ấn, Tân Sửu Canh Tý đất Tài Quan là đẹp nhất, Kỷ Hợi ở trên có khả không có ngại. Vận Mậu Tuất tất không tốt, là chỗ Thực thương lấn áp vậy.
Đây là lời bình trong tử bình chân thuyên
đường link
http://kimtubinh.net/showthread.php?358-Ch%C6%B0%C6%A1ng-46-Lu%E1%BA%ADn-Ki%E1%BA%BFn-L%E1%BB%99c-Nguy%E1%BB%87t-Ki%E1%BA%BFp-th%E1%BB%A7-v%E1%BA%ADn
Hi thiensa,
Tị dậu bán tam hợp kim, do cách trụ nên không luận bán tam hợp thành. Ta có thể hiểu kim cục tài có khả năng dụng được do trụ là kiến lộc cách và nhâm quan tinh lộ trụ giờ trợ giúp.
Tỉ
Kiếp
Nhật chủ
Quan
Đinh Dậu
Bính Ngọ
Đinh Tị
Nhâm Dần
Tân
Đinh,Kỉ
Bính,Mậu,Canh
Giáp,Bính,Mậu
T.Tài
Tỉ,Thực
Kiếp,Thương,Tài
Ấn,Kiếp,Thương
Trường sinh
Lộc
Đế vượng
Tử
Đại vận: Ất Tị/Giáp Thìn/Quý Mão/Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỷ Hợi/Mậu Tuất
Mệnh của Lý Tri phủ, hỉ Tị Dậu hội, dẫn Tài mà gần bên lấy sinh Nhâm thủy Quan tinh, lại hỉ trụ giờ có Dần, là Tài Ấn tương tùy ( hỗ trợ theo ) vậy. Nhâm Dần Quan Ấn, Tân Sửu Canh Tý đất Tài Quan là đẹp nhất, Kỷ Hợi ở trên có khả không có ngại. Vận Mậu Tuất tất không tốt, là chỗ Thực thương lấn áp vậy.
Chương 45 đã nói đến trụ này:
Nguyên văn: Lộc cách dụng Quan, (Quan) thấu ra can là kỳ cách (đặc sắc hiếm thấy), và cần phải có thêm Tài Ấn, không thể để Quan trơ trọi mà không có trợ giúp. Trường hợp dụng Quan có Ấn hộ vệ, như mệnh của Kim Thừa tướng: Canh Tuất/ Mậu Tý/ Quý Dậu/ Quý Hợi. Trường hợp dụng Quan có Tài trợ giúp, như mệnh Lý Tri phủ: Đinh Dậu/ Bính Ngọ/ Đinh Tị/ Nhâm Dần.
Từ chú: Tài Ấn tương tùy, không phải dụng cùng lúc Tài và Ấn (đã nói rõ ở chương luận Quan). Dụng Quan mà có Ấn hộ, chính là dùng Ấn để chế Thương quan, như mệnh của Kim Thừa tướng, Mậu thổ Quan tinh thông căn tại Tuất, may ở Mậu Quý hợp mà không hóa, lấy Dậu kim hộ Quan làm dụng. Còn dụng Quan mà Tài trợ là dùng Tài sinh Quan, như mệnh của Lý Tri phủ, chi năm Dậu kim cách quá xa, có Tị nên mời được Dậu tiếp cận sinh trợ Quan tinh, Đinh Nhâm cũng hỷ ở chổ hợp nhưng không hóa nên cách cục thanh thuần.
Tỉ
Kiếp
Nhật chủ
Quan
Đinh Dậu
Bính Ngọ
Đinh Tị
Nhâm Dần
Tân
Đinh,Kỉ
Bính,Mậu,Canh
Giáp,Bính,Mậu
T.Tài
Tỉ,Thực
Kiếp,Thương,Tài
Ấn,Kiếp,Thương
Trường sinh
Lộc
Đế vượng
Tử
Đại vận: Ất Tị/Giáp Thìn/Quý Mão/Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỷ Hợi/Mậu Tuất
Mệnh của Lý Tri phủ, mừng Tị Dậu gặp nhau, kéo Tài đến gần để sinh Nhâm thủy Quan tinh, hơn nữa trụ giờ có Dần, là Tài Ấn tương tùy (thuận theo nhau). Các vận Nhâm Dần là Quan Ấn, Tân Sửu Canh Tý vốn đất Tài Quan là các vận đẹp nhất, vận Kỷ Hợi còn không sao, nhưng vận Mậu Tuất tất không tốt, đây gọi là Thực Thương tương vũ (khinh thường nhau).
Từ chương 45, qua đến chương 46, rõ ràng tác giả ngầm luận là tị dậu hợp nhưng không hóa (có ý hợp thôi), vì không hóa nên bị hỏa đốt nóng chảy sinh cho Nhâm thủy là Quan tinh (Quan yếu vì mất gốc, lại bị Kiếp vượng tiết hao), vậy mới nói Lộc cách dụng Quan, có Tài trợ là vậy.
Phần luận trong bài nên hiểu là Tị Dậu có ý hợp bởi tháng Ngọ hỏa vượng cực, vì vậy trụ này cách cục không phải là cao và muốn đạt Quan tất cần đến vận trợ Quan như Nhâm Dần, mà đặc biệt là sang vận Bắc phương Tân Sửu là đẹp nhất vì lúc này hội đủ kim cục tài tinh trợ Quan.
Phần luận trong bài nên hiểu là Tị Dậu có ý hợp bởi tháng Ngọ hỏa vượng cực, vì vậy trụ này cách cục không phải là cao và muốn đạt Quan tất cần đến vận trợ Quan như Nhâm Dần, mà đặc biệt là sang vận Bắc phương Tân Sửu là đẹp nhất vì lúc này hội đủ kim cục tài tinh trợ Quan.
Có ý hợp sao còn gọi là hợp không hóa?
Kính chào diễn đàn,
Hôm nay “abc” Giác Viễn xin được quý vịcao nhân Tử Bình của diễn đàn chỉ điểm cho một số chưa thông, xin cám ơn trước.
1. Có phải hành của chi là bản khí? Như hành của Dần là mộc vì GV thấy Dần(Mậuthổ, Bínhhỏa, Giápmộc) , vv…
2. Khi gặp tam hội phương (3hp), tam hợp cục (3hc), lục hợp (6p)giả sử là hóa thành, thì “hành hóa” chỉ ảnh hưởng đến bản khí tàng trong chi?.
Cụ thể: dần-ngọ-tuất, 3hc hỏa viênthành, thì phải chăng chỉ có bản khí bị thay đổi hành. Trung khí, dư khí khôngthay đổi?, nghĩa là:
3hc hỏa ko thành
DẦN
NGỌ
TUẤT
BK
GIÁPmộc
ĐINHhỏa
MẬUthổ
3hc hỏa thành
DẦN
NGỌ
TUẤT
BK
GIÁPhỏa
ĐINHhỏa
MẬUhỏa
chào bác GiacVien, vấn đề bác hỏi thuộc về cơ bản nên TB trao đổi 1 số điểm sau:
1. Ngay từ cách gọi bản khí (thể hiện về bản chất), trung khí, dư khí đã hàm ý Hành của bản khí là hành của chi. Cách viết chẳng hạn chi Dần (mậu bính giáp) như bác thấy là thể hiện theo thứ tự hành quyền của nhân nguyên. Cuối tiết Tiểu hàn thì Kỷ thổ nắm lệnh khoảng 18 ngày nên sang tiết Lập xuân Mậu thổ sẽ nắm quyền khoảng 7 ngày, Bính hỏa 7 ngày và đến Giáp mộc 16 ngày.
2. Quan niệm hợp hóa trong tử bình như bố mẹ sinh con, vì thế cha mẹ vẫn còn. Sách nói lấy hành hóa để mà luận, ý nói hành đó lúc này vượng chiếm ưu thế tuyệt đối nên phải lấy nó mà luận trước.
Thí dụ của bác Dần Ngọ Tuất hỏa cục thì lúc này luận Hỏa vượng, cách nhìn thấy trước vẫn là Ấn cách (có thể có biến cách).
Mệnh của Lý Tri phủ, hỉ Tị Dậu hội, dẫn Tài mà gần bên lấy sinh Nhâm thủy Quan tinh, lại hỉ trụ giờ có Dần, là Tài Ấn tương tùy ( hỗ trợ theo ) vậy. Nhâm Dần Quan Ấn, Tân Sửu Canh Tý đất Tài Quan là đẹp nhất, Kỷ Hợi ở trên có khả không có ngại. Vận Mậu Tuất tất không tốt, là chỗ Thực thương lấn áp vậy.
Chỗ gạch dưới tôi đánh nhầm " Kỷ Hợi ở trên có thể không ngại".
Có ý hợp sao còn gọi là hợp không hóa?
ý thì hợp, nhưng chưa có đièu kiện hóa nên gọi là hợp không hóa, khi nào có đủ lực thì hóa thành công, cũng có nghĩa là hành đó mạnh thêm lên, Tị và Dậu gặp Sửu và Canh hay Tân là hóa kim.
Theo cụ Thiệu Vỹ Hoa, thì lục hợp không luận Hoá, mà xem chữ tác dụng
Vd:
-mão Tuất hợp thì hoá thần là Hoả, vì thế đinh hoả trong Tuất tăng lực, ất mộc trong mão và mậu thổ, tân kim trong Tuất đều giảm lực (hơn một nửa).
- ngọ mùi hợp thì tuỳ nguyệt lệnh thời gian, nếu ở tháng hoả vượng thì ngọ hoả, mùi thổ đều tăng lực, nếu ở tháng thổ vượng thì ngọ giảm lực, mùi tăng lực. Các tháng khác thì cả 2 đều giảm lực, hay còn gọi là hợp bán (không có tác dụng gì), điểm chung là Ất mộc trong mùi bị hao tiết rất nhiều, khá yếu
...
Còn tam hợp, hội hoặc bán tam hợp thì luôn hoá không cần dẫn thần. Nếu hoá thần nắm vượng tướng nguyệt lệnh thì thành hợp cục vượng, bị nguyệt lệnh khắc thì hoá cũng như không, chỉ mạnh hơn một chút.
Như tị dậu sửu tam hợp hoá kim, thì tị hội hoá mất tác dụng, sửu bị tiết khí bớt, dậu kim tăng lực cường đại.
...
Nhìn chung trước đây tôi đọc bản pdf dự đoán tứ trụ trên mạng thấy đề cao thiên can dẫn hoá, nhưng giờ có sách giấy đọc thì thấy khác, cụ chỉ nói không có dẫn hoá thì lực yếu, hoặc không rõ ràng chứ không nói là không hoá được.
Đây là những kiến thức có trong cuốn dự đoán theo tứ trụ tái bản 2012.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.