PDA

View Full Version : Nhờ luận 1 bát tự (giáp tí-kỉ tị-tân dậu-kỉ hợi)



AnKhoa
01-06-12, 18:23
Gửi anh chị tại diễn đàn,

AnKhoa đang tìm hiểu môn học Tử Bình, nên muốn nhờ anh chị luận giúp bát tự này để học hỏi :

Mệnh nam, Giáp Tý:

Giáp Tý - Kỷ Tỵ - Tân Dậu - Kỷ Hợi

Thanks.

may man
01-06-12, 18:40
Nam, sinh 27/5/1984, giờ Hợi ?

Tứ trụ:

http://www.lyso.vn/dichvu/lasotutru/1/223027051984/1/A.jpg

http://xemtuong.net/KHHB/tubinh/print.php?topic=1_1_1_6_6_8_10_6_12_28_Abc



TÀI

KIÊU


KIÊU

Mệnh

Thai nguyên



Giáp

Kỷ

Tân

Kỷ

Ất

Canh





tị

dậu

hợi

Sửu

Thân



Quý
Bính
mậu
canh
Tân
Nhâm




Đại vận:
KIẾP

TỈ

THƯƠNG

THỰC

TÀI




canh ngọ
tân mùi
nhâm thân
quý dậu
giáp tuất

kimcuong
01-06-12, 20:28
Tôi có đọc qua bài ankhoa nhờ luận ở diễn đàn khác. Đã có nhiều ý kiến khác nhau, có lẽ không được yên tâm?

Nếu đúng sinh vào giờ Hợi thì tứ trụ có cứu, vì Thủy chế bớt Thổ Ấn quá nhiều. Năm Kỉ Sửu bạn cho là tốt, bởi vì là vận Nhâm Thân, lưu niên Sửu gặp Hợi Tí là thành tam hội phương bắc, tính cách là Thực Thương vượng nên tiết khí tốt. Kỉ lưu niên gặp Giáp là hợp, không hóa được Thổ nên cả Giáp và Kỉ đều như hư danh, không có tác dụng.

Nhận xét về mình có một lực đè nặng nào đấy mà không biết rõ, chính là thiên can hợp bất hóa; bình thường rất tạo nên mâu thuẫn cho chính mình. Gặp ở nguyên cục, ứng ra ở vận hay lưu niên thì chỉ còn nhờ địa chi cứu giải bớt.

Canh Dần gặp tam hình thì khó khăn tự chính mình, Tân Mão thì Mão xung Dậu, tốn tiền hay thất tình nhẹ. Tứ trụ này là chính quan cách nhưng không dùng được Ấn, không dùng được Tài; Tị Hợi xung, tuy xa nhưng rất ứng ở thời vận, như Đinh Hợi chẳng hạn. Xung chính quan là cách cục của mình thì chính là như trốn chạy 1 bổn phận, 1 quyền lợi vậy.

AnKhoa
01-06-12, 21:02
Gửi chị kimcuong,

Cám ơn chị về bài luận của mình. AnKhoa mới học, nên cũng không phân biệt được đúng sai, nên muốn tham khảo nhiều ý kiến để học hỏi.



Nếu đúng sinh vào giờ Hợi thì tứ trụ có cứu, vì Thủy chế bớt Thổ Ấn quá nhiều. Năm Kỉ Sửu bạn cho là tốt, bởi vì là vận Nhâm Thân, lưu niên Sửu gặp Hợi Tí là thành tam hội phương bắc, tính cách là Thực Thương vượng nên tiết khí tốt. Kỉ lưu niên gặp Giáp là hợp, không hóa được Thổ nên cả Giáp và Kỉ đều như hư danh, không có tác dụng.


Năm Kỷ Sửu, tuy sáng là vậy, nhưng đúng là mới chỉ dừng lại ở mức hư danh, chưa thực sự có thành tựu đáng kể.



Nhận xét về mình có một lực đè nặng nào đấy mà không biết rõ, chính là thiên can hợp bất hóa; bình thường rất tạo nên mâu thuẫn cho chính mình. Gặp ở nguyên cục, ứng ra ở vận hay lưu niên thì chỉ còn nhờ địa chi cứu giải bớt.


Như vậy, vào vận địa chi nào thì được cứu giải chị ?



Canh Dần gặp tam hình thì khó khăn tự chính mình, Tân Mão thì Mão xung Dậu, tốn tiền hay thất tình nhẹ.



Xung chính quan là cách cục của mình thì chính là như trốn chạy 1 bổn phận, 1 quyền lợi vậy.

Đúng vậy chị ạ.



Tứ trụ này là chính quan cách nhưng không dùng được Ấn, không dùng được Tài; Tị Hợi xung, tuy xa nhưng rất ứng ở thời vận, như Đinh Hợi chẳng hạn.

Vậy chị có nhận xét nào về hành vận không ? Có xu hướng bổ trợ gì không ? Theo chị, bát tự này thiên về nghề nghiệp gì, vì thực sự, tới giờ em vẫn đang băn khoăn vài ba hướng nghề nghiệp để làm.

Cám ơn chị,
AnKhoa

thiếu bá
01-06-12, 22:00
hi AnKhoa! tứ trụ của bạn chị kimcuong đã phân tích rõ ở trên, Tân sinh tháng Tị thất lệnh nhưng Tị Dậu kết hợp với mệnh cung Sửu kể như chuyển nhược thành vượng, lại thấu 2 Kỷ thổ lạm sinh phù. Lệnh tháng tàng Quan mà Quan cách không thành, Giáp Kỷ hợp là Tài bị hợp, mừng thấy thủy thực thương tiết tú, gặp mộc cũng tốt.

Bạn biết về tứ trụ nên có lẽ về xu hướng bổ trợ là không cần nói nữa vì nó phụ thuộc vào chính công việc, môi trường bạn sinh hoạt... Hành vận Nhâm Thân là được vì Nhâm thủy trường sinh, Quý Dậu thì không bằng. Nghề nghiệp thì theo mình là hợp với nghề tự do thiên về kinh doanh. Nếu bạn có những hướng cụ thể nào có thể nói ra để mọi người tư vấn thêm.

AnKhoa
01-06-12, 22:21
hi AnKhoa! tứ trụ của bạn chị kimcuong đã phân tích rõ ở trên, Tân sinh tháng Tị thất lệnh nhưng Tị Dậu kết hợp với mệnh cung Sửu kể như chuyển nhược thành vượng, lại thấu 2 Kỷ thổ lạm sinh phù. Lệnh tháng tàng Quan mà Quan cách không thành, Giáp Kỷ hợp là Tài bị hợp, mừng thấy thủy thực thương tiết tú, gặp mộc cũng tốt.

Bạn biết về tứ trụ nên có lẽ về xu hướng bổ trợ là không cần nói nữa vì nó phụ thuộc vào chính công việc, môi trường bạn sinh hoạt... Hành vận Nhâm Thân là được vì Nhâm thủy trường sinh, Quý Dậu thì không bằng. Nghề nghiệp thì theo mình là hợp với nghề tự do thiên về kinh doanh. Nếu bạn có những hướng cụ thể nào có thể nói ra để mọi người tư vấn thêm.

Hi anh thiếu bá,

Em cảm giác như mình bị ảnh hưởng bởi 2 Kiêu giáp Thân khá mạnh, như là "Thổ nhiều thì vùi lấp Kim" vậy, nên tính tình khá hướng nội, thích nghiên cứu, không thích tụ tập, ngại giao tiếp. Nhưng có vẻ cũng vẫn bị cái Thân là Tân Kim chi phối, rất thích làm những công việc mang tính mới mẻ, sáng tạo. Chuyên môn thì bằng Đại học là IT, bằng Cao học là Quản trị kinh doanh. Có vẻ Thổ dày, nên em thích những tổ chức lớn có quy mô, tầng lớp, vững chãi, không thích những việc phải bôn ba nhiều.

Em cũng không rõ vận sắp tới là thuận hay không thuận cho mình, hay thuận theo hướng nào nữa. Đọc một số tài liệu thì vẫn có mâu thuẫn khi đại vận trọng Can hay Chi. Vì tính theo Chi thì là đang hành vận phương Tây Kim thịnh làm cho Thân vượng càng vượng, liệu là không tốt ? Hay lúc đó Kim lại có cơ hội bứt phá qua sự kìm kẹp của 2 Kiêu Thổ để tỏa sáng ? Hay tính theo Can thì là Thương, Thực, Giáp sinh Tài, thuận cho vấn đề tiền tài ?

Thân.

thiếu bá
02-06-12, 08:25
AnKhoa, tứ trụ này không đến mức gọi là "Thổ nhiều vùi lấp kim", năm Tý giờ Hợi thuỷ không hề kém thế, Kỷ thổ 2 bên sinh Kim thái quá lại sinh tiết Lập hạ nên ảnh hưởng của thổ là khá rõ ràng: hướng nội, ngại giao tiếp, thích nghiên cứu... Có cứu chính là bởi giờ Hợi như chị kimcuong nói ở trên, tương ứng với Thương quan tiết tú (bản chất thương quan là thích làm những công việc mang tính mới mẻ, sáng tạo). Có điều bạn nên quan tâm tìm hiểu thêm về thủy trong tứ trụ này, chẳng hạn, Hợi thì bị Tị xung xa, Tý Sửu nhập Không vong kể như thủy hình khuyết...

Còn về vấn đề đại vận trọng Can hay Chi thì đã có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này, thực sự luận không hề phân chia tách bạch trọng Can hay trọng Chi mà Can Chi đều tham gia ở mức hữu dụng của nó. Quan điểm nói truyền thống trọng Chi chính bởi vì Đại vận xuất từ mùa sinh (lệnh tháng) nên đây là nói về "khí", chẳng hạn như vận Nhâm Thân của bạn thì vận Tây phương đúng là kim vượng, cái hay là can Nhâm trường sinh tại Thân chẳng phải là tiết tú thân sao ? Mộc tài tinh ở vận này là tuyệt địa nên tiền tài khó thỏa mãn, nên quan tâm phát huy Thực thương tiết tú bạn nhé...:4:

may man
02-06-12, 12:16
1. Muốn đề cập đến "thổ vượng chôn kim" thì Kim thất lệnh và mất gốc , ỡ đây nguyệt lệnh tàng kim khí , Tân kim thông gốc tại Dậu , đó là cứu cánh rất hay, kiểu như xung khắc , bão tố, nhưng căn cơ tốt (học hành/sức khỏe/cơ ngơi gia đình/...) nên chống chọi đuọc hoàn cảnh.

2. Kiêu ở đây có tác dụng làm hóa sát sinh thân, theo sách vở, nhưng nhiều thì ko tốt, làm con người hướng nội ,v.v... như bạn tự cảm thấy. Dù gì đi nữa thì Tân kim rất cần (thân vượng) Nhâm tẩy sạch chất căn bả, để thành "kim bạch thủy thanh", quý cách, tuy ko có Nhâm nhưng có Hợi, cũng là thứ cách, kiêm điều hậu. Nhâm cần vận để thấu ra.

3. Can chi là trọng hay ko trọng , cần đọc thêm chương 25 của Tử bình chân thuyên bình chú, do kimtubinh tự dịch...

************************

Chương 25.

Luận hành vận


Nguyên văn:
Phương pháp luận vận và xem mệnh cũng không khác nhau. Xem mệnh lấy can chi tứ trụ phối với hỷ kị nguyệt lệnh, còn thủ vận thì lại lấy can của vận phối hỷ kị Bát tự. Cho nên ở hành vận, mỗi vận là một chữ, tất lấy chữ này phối với can chi trong mệnh để thống nhất xem toàn cục, là hỷ hay là kỵ, cát hung phân rõ ra.

Từ chú thích:
Phú quý xác định ở mệnh, còn cùng đường hay hanh thông là ở vận, mệnh ví như hạt giống cây, còn vận như thời tiết làm hoa nở hay hoa rụng. Tuy mệnh tốt mà không gặp thời, như anh hùng không có đất dụng võ, ngược lại cũng có bát tự bình thường mà vận bổ trợ được khiếm khuyết mệnh cục thì cũng có thể thừa cơ quật khởi. Thế mới nói "Mệnh tốt không bằng vận tốt". Phương pháp xem mệnh thủ dụng có lẽ không ngoài các phương pháp Phù Ức, Khử Bệnh, Thông Quan, Điều Hậu, Trợ Vượng ( xem tiết Luận Dụng thần ). Phối hợp thủ vận cũng là trợ cái hỷ dụng của mình, bổ khuyết cái bất túc của mình, thành bại biến hóa, tổng thể là như nhau, nguyên văn hết sức rõ ràng không rườm rà. Riêng vận lấy phương làm trọng, tức quan trọng Dần Mão Thìn Đông phương, Tị Ngọ Mùi Nam phương, Thân Dậu Tuất Tây phương, hoặc Hợi Tý Sửu Bắc phương.

- Như: Canh Thân Tân Dậu, Giáp Dần Ất Mão, hành can chi giống nhau, không có gì để nói.

- Như: Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Dần, Đinh Mão, mộc hỏa đồng khí, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Thân, Quý Dậu, kim thủy đồng khí, là hỷ hay là kỵ thì tổng thể như nhau.

- Như: Bính Tý Bính Thân, hỏa không thông gốc, Canh Dần Tân Mão, kim bất thông căn, thì lực của can nhỏ còn lực phương mạnh. Lúc này, can là hỷ thì phúc không đủ, là kỵ thì cái hại cũng không lớn.

Cho nên xem đại vận cần phải hợp luận cả 10 năm, không thể chỉ lấy ra một chữ hỷ kỵ, rồi đoán kiểu thầy bói xem voi, gọt chân cho vừa giày.


Nguyên văn:
Hỷ là gì? Tức là trong mệnh được thập thần giúp ích nhưng thủ đắc được nó ta phải tìm cách trợ giúp cho nó có lực. Như trường hợp Quan cách dùng Ấn để chế Thương, mà vận trợ Ấn; Tài sinh Quan mà thân khinh, mà vận trợ thân; Ấn cách mà kèm theo Tài tưởng là kị, mà vận gặp được Kiếp tài; Thực đới Sát để thành cách, Thân khinh mà vận gặp Ấn, Sát trọng mà vận trợ Thực; Thương Quan bội Ấn, mà vận hành Quan Sát; Dương Nhận dụng Quan, mà vận trợ Tài hương; nguyệt Kiếp dụng Tài, mà vận hành Thương Thực. Các loại như thế đều là mỹ vận.

Từ chú thích:
Hỉ thần hoặc Dụng thần của mệnh được trợ giúp ở vận thì vận đó là một vận tốt. Quan cách kiến Thương là kị, dụng Ấn chế Thương để khử bệnh. Hành vận trợ Ấn nghĩa là, như mộc là Ấn, mà hành vận Đông phương Giáp Ất.

Như Ấn lộ Thương tàng, Quan Sát vận cũng tốt. Thương lộ Ấn tàng, kỵ gặp Quan Sát, mà gặp Tài vận phá Ấn là tối kị.

Thân nhược dụng Ấn, kèm theo Tài là kỵ, vận hành Kiếp tài khử được bệnh. Thân cường Ấn vượng, hỷ Tài tổn Ấn, ắt hẳn vận Tài tốt đẹp, và kị vận Kiếp tài.

Thực Thần đới Sát, Thân nhược gặp khắc tiết lẫn lộn, vận gặp Ấn thụ, chế Thương hóa Sát trợ thân, chỉ một vận Ấn mà đạt được cả ba mục đích nên tốt đẹp; nếu Thân cường Sát vượng, lấy Thực chế Sát làm dụng, lúc này lại hỷ hành vận Thực Thương.

Thương Quan bội Ấn, nguyệt lệnh Thương Quan, Nhật nguyên giữ Ấn, Ấn lộ thông căn, vận hành Quan Sát sinh cho Ấn thụ nên là mỹ vận, nhưng nếu Ấn tàng Thương lộ thì lại kị gặp Quan Sát. Hơn nữa, Thương Quan thái vượng, vận hỷ Tài hương tiết khí Thương quan, Tứ trụ tuy bội Ấn mà không thành dụng thì không thể lấy việc gặp Quan Sát làm đẹp được.

Dương Nhận dụng Quan Sát, mà nguyên cục Nhận vượng thì hỷ hành Tài hương sinh cho Quan Sát, nếu Nhận khinh mà Quan Sát trọng, ắt phải trợ Nhận. Nguyệt Kiếp dụng Tài, chỉ có Thực Thương là đẹp, nếu hành Tài vận, cần nguyên cục tứ trụ có Thực Thương mới được, tức mang ý thông quan.

Đây chỉ là đại khái, xem thêm ở "Bát cách thủ vận" (chọn đường đi thích hợp cho bát cách) thì rõ.

..........

AnKhoa
02-06-12, 14:33
Cám ơn các anh, chị tại diễn đàn.

Chúc diễn đàn phát triển, đóng góp cho sự phát triển của mệnh lý Tử Bình tại Việt Nam.

Thân.
AnKhoa