lesoi
02-06-12, 11:07
-Kimcuong-
Thuyết xem Ám Cách là một trong những cách đoán hung hay cát tổng thể trong Mệnh. Ám xung, ám hợp, ám cường đều là 1 trong những cách Ám. Đây là một loại diễn tiến chậm nhất, bởi vì "Ám" là "ngầm", là phần không nhìn thấy rõ được trong tứ trụ. Tuy nhiên, cách tính của Ám rất đơn giản. Thật sự đấy cũng chính là để xét quí cách, dụng thần hay kị thần cường vượng trong trụ, khi động thì hóa hung hay cát mạnh mẽ.
Bản thân tôi đều chọn cách này là sau cùng khi xem hết các thuyết khác, giống như để xác định lại kết quả tìm được vậy.
Tôi đã có thí dụ tứ trụ của Vua Quang Trung mà có người gọi là "Kình dương ám cách". Kình dương là ngôi đế vượng của thiên can. Nếu nó "ngầm" chứa trong tam hợp, tam hội, lại có thiên can dẫn lộ thì khả năng là phi thường cách, nhưng rất kị bị Xung, họa đến cao nhất là tử vong.
Ấn
Thương
Nhật chủ
Thương
Nhâm
Bính
Ất
Bính
Thân
Ngọ
Sửu
Tuất
Canh
Đinh
Kỉ
Mậu
Nhâm
Kỉ
Tân
Tân
Mậu
Đinh
Đinh
Ất không có gốc, không có Tỉ kiếp phò trợ, nhưng có Ngọ và Tuất bán tam hợp Hỏa. Dần là Giáp, chính là Kiếp của Ất, vì thế nên Dần là ám hợp cách (lưu ý nếu Dần mà lộ thì không phải quý cách này).
Nhưng tứ trụ có Thân ở trụ năm thì sự đại quí đại lộc không còn hoàn toàn nữa (vì Dần Thân xung). Đấy là đại họa báo trước.
(KC thì không gọi là "kình dương ám cách", vì can âm không có kình dương, tuy nhiên, bản chất của ám hợp thì vẫn đúng, chỉ là tên gọi.)
Hỏa là Thực Thương của Ất, được ám hợp nên tú khí rất mạnh mẽ, vua Quang Trung có võ nghệ và sức khỏe phi thường.
Ngài lên ngôi năm 1788 là năm Mậu Thân, vận Kỷ Dậu. 3 chi hợp lại thành Kim (Thân Dậu Tuất) thành "cường hỏa đắc kim". (Nhớ là HỎA là ám cách). Để ý chi Thân này tàng chứa Canh, cũng là một hung họa đáng ngại nhưng đã nằm trong tam hợp mà Dậu là chính, không phải Thân.
Nhưng đến vận Canh Tuất, Canh lộ ra là hung thần lộ diện (bản khí của Canh là Thân), lại hợp mất Ất nhật chủ, Kim thần quá mạnh, Mộc không còn khí lực nào nữa nên ngài bị mạng vong.
Năm ngài mất là Nhâm Tý thiên khắc địa xung với trụ tháng Bính Ngọ. Trụ tháng bị xung mất gốc cũng là một điều đáng ngại vô cùng.
Thêm 1 thí dụ Ám cách để các bạn suy nghiệm. Tứ trụ sau đây dễ thấy hơn thế nào gọi là "ám" mà không được lộ, bất kì ở dạng thiên can hay địa chi.
Thương
Quan
Nhật chủ
Sát
Kỉ
Quí
Bính
Nhâm
Tị
Dậu
Dần
Thìn
Bính sinh tiết Bạch lộ, từ mùa Thu trở đi thì Hỏa gặp Bệnh, Tử, Tuyệt... nên hỏa khí nhược, không thể khắc nổi Kim. Vì thế để ý Tị Dậu trong trụ, thêm Sửu là thành tam hợp Kim vượng. Đấy là 1 ám cách.
Trong trụ này thân nhược nên Mộc và Hỏa là dụng.
Nếu Mộc là dụng thì có phải là rất sợ Kim? Điều này lại khẳng định tam hợp Tị Dậu Sửu không nên xuất đầu lộ diện. Vì thế đây cũng gọi SỬU là "chi ám".
Người này cũng là một phi thường nhân, chính trị gia nổi tiếng. Đến vận Ất Sửu là vận tai họa báo trước vì tam hợp Kim đã thành hình. Ất là Ấn đại diện cho sức khỏe bản thân, bị Kim tam hợp khắc chế.
Ngày tử vong là ngày 30.1.1948, tức là vẫn còn năm Đinh Hợi. Các bạn hãy để ý trong trụ có Dần ở trụ ngày mà bản khí Giáp cũng là Mộc dụng thần. Nhưng quả là Ất Giáp đều bị hại một lúc, bởi vì Hợi đến hợp Dần; Giáp bị hợp chặt.
Chúng ta cũng nhớ là đã học Dần Hợi là lục hợp (có sách nói là vừa hợp vừa phá, thường ta vẫn nói trong cái may có cái rủi là như vậy). Ở đây thì rõ là không cần hợp mà phải gọi là "bị" hợp, vì Hợi thủy là cừu thần.
Đương số bị ám sát rất gần (hung thủ đến sát tận nơi) chẳng phải cũng là một biểu hiện của sự hợp chặt đấy sao...
Ám cách đại lọai là như thế: Khi nào 1 tiêu chí trong tam hợp, tam hội là điểm yếu nhất của đương số thì rất cần phải tránh vận hạn lúc đó thấu ra. Nếu dụng hỉ thần đều không có lực ngay lúc đó thì rất nguy.
Thuyết xem Ám Cách là một trong những cách đoán hung hay cát tổng thể trong Mệnh. Ám xung, ám hợp, ám cường đều là 1 trong những cách Ám. Đây là một loại diễn tiến chậm nhất, bởi vì "Ám" là "ngầm", là phần không nhìn thấy rõ được trong tứ trụ. Tuy nhiên, cách tính của Ám rất đơn giản. Thật sự đấy cũng chính là để xét quí cách, dụng thần hay kị thần cường vượng trong trụ, khi động thì hóa hung hay cát mạnh mẽ.
Bản thân tôi đều chọn cách này là sau cùng khi xem hết các thuyết khác, giống như để xác định lại kết quả tìm được vậy.
Tôi đã có thí dụ tứ trụ của Vua Quang Trung mà có người gọi là "Kình dương ám cách". Kình dương là ngôi đế vượng của thiên can. Nếu nó "ngầm" chứa trong tam hợp, tam hội, lại có thiên can dẫn lộ thì khả năng là phi thường cách, nhưng rất kị bị Xung, họa đến cao nhất là tử vong.
Ấn
Thương
Nhật chủ
Thương
Nhâm
Bính
Ất
Bính
Thân
Ngọ
Sửu
Tuất
Canh
Đinh
Kỉ
Mậu
Nhâm
Kỉ
Tân
Tân
Mậu
Đinh
Đinh
Ất không có gốc, không có Tỉ kiếp phò trợ, nhưng có Ngọ và Tuất bán tam hợp Hỏa. Dần là Giáp, chính là Kiếp của Ất, vì thế nên Dần là ám hợp cách (lưu ý nếu Dần mà lộ thì không phải quý cách này).
Nhưng tứ trụ có Thân ở trụ năm thì sự đại quí đại lộc không còn hoàn toàn nữa (vì Dần Thân xung). Đấy là đại họa báo trước.
(KC thì không gọi là "kình dương ám cách", vì can âm không có kình dương, tuy nhiên, bản chất của ám hợp thì vẫn đúng, chỉ là tên gọi.)
Hỏa là Thực Thương của Ất, được ám hợp nên tú khí rất mạnh mẽ, vua Quang Trung có võ nghệ và sức khỏe phi thường.
Ngài lên ngôi năm 1788 là năm Mậu Thân, vận Kỷ Dậu. 3 chi hợp lại thành Kim (Thân Dậu Tuất) thành "cường hỏa đắc kim". (Nhớ là HỎA là ám cách). Để ý chi Thân này tàng chứa Canh, cũng là một hung họa đáng ngại nhưng đã nằm trong tam hợp mà Dậu là chính, không phải Thân.
Nhưng đến vận Canh Tuất, Canh lộ ra là hung thần lộ diện (bản khí của Canh là Thân), lại hợp mất Ất nhật chủ, Kim thần quá mạnh, Mộc không còn khí lực nào nữa nên ngài bị mạng vong.
Năm ngài mất là Nhâm Tý thiên khắc địa xung với trụ tháng Bính Ngọ. Trụ tháng bị xung mất gốc cũng là một điều đáng ngại vô cùng.
Thêm 1 thí dụ Ám cách để các bạn suy nghiệm. Tứ trụ sau đây dễ thấy hơn thế nào gọi là "ám" mà không được lộ, bất kì ở dạng thiên can hay địa chi.
Thương
Quan
Nhật chủ
Sát
Kỉ
Quí
Bính
Nhâm
Tị
Dậu
Dần
Thìn
Bính sinh tiết Bạch lộ, từ mùa Thu trở đi thì Hỏa gặp Bệnh, Tử, Tuyệt... nên hỏa khí nhược, không thể khắc nổi Kim. Vì thế để ý Tị Dậu trong trụ, thêm Sửu là thành tam hợp Kim vượng. Đấy là 1 ám cách.
Trong trụ này thân nhược nên Mộc và Hỏa là dụng.
Nếu Mộc là dụng thì có phải là rất sợ Kim? Điều này lại khẳng định tam hợp Tị Dậu Sửu không nên xuất đầu lộ diện. Vì thế đây cũng gọi SỬU là "chi ám".
Người này cũng là một phi thường nhân, chính trị gia nổi tiếng. Đến vận Ất Sửu là vận tai họa báo trước vì tam hợp Kim đã thành hình. Ất là Ấn đại diện cho sức khỏe bản thân, bị Kim tam hợp khắc chế.
Ngày tử vong là ngày 30.1.1948, tức là vẫn còn năm Đinh Hợi. Các bạn hãy để ý trong trụ có Dần ở trụ ngày mà bản khí Giáp cũng là Mộc dụng thần. Nhưng quả là Ất Giáp đều bị hại một lúc, bởi vì Hợi đến hợp Dần; Giáp bị hợp chặt.
Chúng ta cũng nhớ là đã học Dần Hợi là lục hợp (có sách nói là vừa hợp vừa phá, thường ta vẫn nói trong cái may có cái rủi là như vậy). Ở đây thì rõ là không cần hợp mà phải gọi là "bị" hợp, vì Hợi thủy là cừu thần.
Đương số bị ám sát rất gần (hung thủ đến sát tận nơi) chẳng phải cũng là một biểu hiện của sự hợp chặt đấy sao...
Ám cách đại lọai là như thế: Khi nào 1 tiêu chí trong tam hợp, tam hội là điểm yếu nhất của đương số thì rất cần phải tránh vận hạn lúc đó thấu ra. Nếu dụng hỉ thần đều không có lực ngay lúc đó thì rất nguy.