PDA

View Full Version : Bàn về Thương quan cách



thiếu bá
02-06-12, 13:01
(nguồn tuvilyso.com, tuvilyso.net, tác giả: maithon)

Thương Quan do nhật can sinh ra can trái âm dương với nhật can, như nhật chủ Giáp lấy Đinh làm Thương Quan. Theo các sách xuất bản hiện nay thì có ý mệnh cục Thương Quan dễ bị nghèo, ý này đúng nhưng chưa đủ vì thể tính (Substance) là như vậy, nhưng dụng tính (Applicability) thì phải xét trong tổ hợp cách cục với các thần khác.

Trong thập thần của bát tự có ngũ thiện thần và ngũ ác thần, ngũ thiện thần là Tài Quan Ấn Thực, ngũ ác thần là Thương Sát Tỉ Kiếp Kiêu. Bình thường khi xét cách cục cao thấp quí tiện, đa số chú trọng đến Tài Quan Ấn Thực là các thiện thần, và sợ Thương Sát Tỉ Kiếp Kiêu.

Nhưng không phải vậy, Bách Diệp Thư có câu:“Tùy theo tính đắc dụng đối với thân mà xét thiện hay ác, Tài Quan Ấn Thực dù thể tính là thiện thần nhưng đối với thân vô dụng thì dụng tính cũng là ác thần. Thương Sát Tỉ Kiếp Kiêu dù thể tính là ác thần, nhưng đối với thân hữu dụng thì dụng tính vẫn là thiện thần. Cái nào phối hợp cách cục đắc dụng cũng đều tạo nên Quí Cách, cái nào phối hợp cách cục vô dụng, cũng đều thành phá tiện cách.” Đọan này nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa Thể Tính và Dụng Tính của thập thần, ta có thể vận dụng vào giải bài tóan Thương Quan.

Như vậy thì Thương Quan khi đắc dụng cũng thành quí cách, nhưng người ta sợ nó là vì nó thương khắc Quan tinh là quí khí. Khi Quí khí bị phạm hung thì như đế ngộ hung đồ, lại hóa ra ty tiện. Thương Quan tính của nó là Ngạo Khí mà được mô tả bằng 4 chữ “Khinh thế ngạo vật”. Vậy Ngạo khí khi nào đắc dụng? Cũng như trong Tử Vi có cách hung tinh đắc địa, thì trong Tử Bình cũng có các cách đắc dụng của Thương Quan. Điều kiện Hữu Dụng của hung tinh đắc địa trong Tử Vi là hung sát đắc địa không gặp quí tinh như Không Kiếp đắc địa thì không nên gặp Tử Phủ Vũ Tướng Nhật Nguyệt Khôi Việt. Điều kiện hữu dụng của ác thần trong Tử Bình thì phức tạp hơn, nhưng nguyên lí là xuyên suốt, phần phân tích dưới đây nói về tính phức tạp, còn nguyên lí thì chỉ có nghiệm rồi tự ngộ ra thôi.

Khi Thương Quan gặp Thất Sát, Ngạo Khí hóa thành Hùng Khí. Thất Sát là thằng ăn cướp, Thương Quan là đứa giang hồ có bản lãnh, khi nó gặp Sát thì cái chất khinh bạc, ngạo nghễ và bản lãnh của nó được sử dụng vào việc kiềm chế thằng ăn cướp. Thành cách Thương Quan Chế Sát nếu nhật chủ can dương hoặc Thương Quan Hợp Sát nếu nhật chủ can âm, người rất có hùng tâm tráng chí. Trường hợp này rất kỵ Tài tinh xuất hiện, chỉ cần Tài xuất hiện thì lập tức Thương Quan bị Tài mua chuộc làm tay chân cho Sát, hóa ra hung. Dĩ nhiên, điều này còn tùy vào cách cục để luận, không xác định được cách cục mà xét đóan theo công thức như vậy cũng bằng thừa. Trường hợp Thương gặp Sát trong Tử Vi giống như bộ Sát Phá Tham gặp Lục Sát Tinh đắc địa vậy.

Khi Thương Quan gặp Tài Tinh, Ngạo Khí hóa thành Phúc Khí. Tài Tinh là tiền bạc, tiền tài có khả năng sinh ra quyền (Quan, Sát). Thương Quan là đứa giang hồ lêu lỏng tính tham nhưng có bản lĩnh, khi nó không gặp Tài tinh thì nó không có chí thú về sinh kế tiền đồ, nhưng nếu gặp Tài tinh thì Tài cải hóa nó khiến cho cái máu giang hồ bạt mạng của nó thay vì liều mạng đi đua xe đánh lộn thì nay liều mạng kiếm tiền mưu lợi. Trường hợp này thành cách Thương Quan Sinh Tài, dĩ nhiên kỵ nhất là có thêm Ấn xuất hiện vì lúc đó Tài sẽ phá Ấn hóa ra phá cục.

Khi Thương Quan gặp Ấn thì Ngạo Khí hóa thành Tú Khí. Như một đứa lêu lỏng nay siêng năng học hành, có chí hướng, biết khắc kỷ phục lễ. Cách thức này diễn tả ra giống như Lê Quí Đôn trong bài “Rắn Đầu Biếng Học” vậy. Cách này gọi là Thương Quan Đới Ấn, nhưng rất kỵ gặp Tài Tinh vì Tài sẽ phá Ấn chẳng ra cơm cháo gì hết. Dĩ nhiên vấn đề mấu chốt vẫn là xác định cách cục để biết khinh trọng rồi mới quyết đóan là Tài có phá Ấn hay không?

Khi mệnh cục tòan Thương Quan, không thấu Tài Quan Ấn thì thành Tòng Nhi Cách, thấu một trong ba thứ đó thì biến thành cách cục khác.

Khi Thương Quan gặp Quan tinh thì có hai khả năng xảy ra: Một là Thương Quan Kiến Quan họa bá đoan, hai là Thương Quan Thương Tận. Tiêu chí để xét đóan là cân nhắc khinh trọng của hai bên.

Khi mệnh cục Chính Quan mà xuất hiện Thương Quan thì thành Thương Quan Kiến Quan. Mệnh cục Chính Quan tức là mệnh làm quan, quí khí tràn đầy trong mệnh, nhưng gặp thêm Thương Quan dù nhược, thì quí khí cũng bị phạm hung như đế ngộ hung đồ vậy, phá cách hòan tòan, khi nào Thương Quan bị chế phục, tòan vô khí lực thì mới giải được. Cách này tương tự như trong Tử Vi ta có cách Tử Phủ Vũ Tướng phùng Không Kiếp hay Tử Vi Cư Ngọ gia Hình Kỵ. Trong tứơng học thì gọi là “Nhất trọc phá cửu thanh.” Trong đời thường thì ta có thể tưởng tượng một ông quan lớn ăn mặc sang trọng, quần áo giày dép, nước hoa…tòan mua từ The Fifth Ave. ở New York City mà lại quên kéo dây kéo hay mở miệng chưởi thề thì cái bộ quần áo ông ta trang sức lên người sẽ làm ông ta cao quí hơn hay khiến ông ta thành trò cười cho báo giới và bàn dân thiên hạ? Đó là trường hợp Thương Quan phạm nhẹ, còn phạm Quan Tinh nặng thì cũng ông quan đó, ăn mặc sang trọng nhưng mang đôi dép lào, dép tổ ong, tác phong lắm la lắm lét đi lang thang ở khu nhà giàu thì thế nào cũng bị cảnh sát hỏi thăm!

Khi mệnh cục Thương Quan mà xuất hiện Chính Quan nhược hoặc bị hợp thì thành Thương Quan Thương Tận. Giống như trong Tử Vi có cách Hung Sát đắc địa phát đả như lôi, như Kiếp Không Tỵ Hợi, Tham Hỏa Tương Phùng, Hao tinh mộ địa gia Hình Lộc, Khốc Hư Tí Ngọ…hóa Khoa Quyền Lộc, hung sát trong trường hợp này là đắc địa hoặc hóa khí nên làm chủ cục diện. Trong trường hợp đắc địa này rất cần tránh xa những bộ sao quyền quí như Khôi Việt Xương Khúc, dễ bị thành phá cách như anh hùng áo vải tạo dựng sự nghiệp thì cần quái gì bằng cấp thi phú làm đẹp lòng vua? Hòang Sào đỗ tú tài thì làm gì có lãnh tụ Hòang Sào chỉ có thầy đề thầy lại Hòang Sào thôi, Hồng Tú Tòan mà thi đỗ Hương Khoa thì làm sao có Thái Bình Thiên Quốc?

Tương tự như vậy, Thương Quan lúc này là anh hùng áo vải tạo dựng sự nghiệp, Ngạo Khí tràn đầy PHẢI gặp Quan Tinh để nó biến thành Hùng Khí Thương Cường. Mệnh Cục Thương Quan là điều kiện Cần (Necessary condition): tràn trề ngạo khí, nhưng phải gặp Quan Tinh mới có điều kiện Đủ (Sufficient condition) để nó có đối tượng mà “Thương Tận” chứ (Destruction for Creation, in other word, “Thương Quan Thương Tận” is similar to the concept of “Destructive Creation”). Cái chính là Quan xuất hiện nhưng yếu hoặc bị hợp. Tức là giống như Nguyễn Huệ khởi nghĩa Tây Sơn (Thương Quan) thành công lên ngôi thành đức Quang Trung vậy, giả như không có gian thần Trương Phúc Loan (Quan) làm triều đình hư nát thì khởi nghĩa Tây Sơn liệu có được dân ủng hộ hay không?

Khi cách cục Thương Quan Ngộ Quan biến thành Thương Quan Thương Tận thì thành đại quí mệnh. Tại sao là đại quí mệnh? Trích Thiên Tủy có câu: “Khi đang ô trọc được thanh mà thanh lại thêm tịnh, khi đến thời cơ thì sơn cốc lạnh lẻo cũng hồi xuân.” Chính là để diễn tả cái đặc sắc của cách Thương Quan Thương Tận. Sau đây là minh họa bằng bát tự của Tổng Lí Nội Các (Thủ Tướng Chính Phủ) Chu Tự Tề.

Kỷ Tỵ / Ất Hợi / Nhâm Tí / Ất Tỵ

Bát tự này Nhâm kiến Lộc tháng Hợi, Thương Quan lưỡng thấu nguyệt thời can. Thương Quan quá vượng lại có gốc sâu nên thành Thương Quan Mệnh Cục, niên can thấu Quan tinh Kỷ thành Thương Quan Ngộ Quan. Cách cục như thế nếu luận theo lối trọng Quan khinh Thương thì sẽ xét thành tiện cách. Nhưng vì Quan tinh tuy có gốc ở Tỵ và được Tài Bính trong Tỵ làm ấn, nhưng bị Hợi xung mất gốc, mất ấn thành cách Thương Quan Thương Tận phản vi quí cách. Lẽ dĩ nhiên những mệnh cục có xung đột như Thương Quan Thương Tận thì cuộc đời phải có nhiều thăng trầm rồi, điều này thiết nghĩ không cần bàn kĩ, giống Hung Sát đắc địa thì dẫu thành công cũng thăng trầm vô độ.

Nơi đây là đất ngọa hổ tàng long, hàng ngày có vô số cao nhân ẩn dật lai vãng nhưng không viết gì, nên tôi cũng không dám viết nhiều, sợ có gì chưa thông thì trước nhất là các bậc thức giả chê cười. Nếu có gì chưa thông, bài viết nhỏ này cũng xin được hầu chư vị một tiếng cười qua mấy trống canh.

kimcuong
02-06-12, 14:58
Bài viết trên rất bổ ích cho việc tìm hiểu về Thương Quan Cách, mà tôi thấy rất nhiều người tỏ ra lo sợ hoặc không vận dụng được cách gọi "Thương Quan Thương Tận". Nhất là rất sợ câu "Thương Quan Kiến Quan, vi họa bách đoan", nghĩa là thương quan mà gặp quan thì họa trăm đường.

Một điều cần nói trước hết là tứ trụ phải có Thương quan cách mới chú ý đến 2 câu trên. Nếu không phải là Cách này thì xét như thập thần liên can với nhau, phụ với Cách Cục chính.

Thương quan cách là như Giáp sinh tháng Ngọ, vì Đinh trong Ngọ là Thương quan. Sau đó phải nhìn thiên can địa chi của tứ trụ để tìm phối hợp cho Thương quan cách:
- sinh Tài
- phối Ấn
- giá Sát
- dụng Quan
lại còn có trường hợp dụng chính Thương quan.

Thứ nhì là không phải cứ gặp Quan là khổ rồi! Theo tài liệu cổ thì Thi quyết có câu:

1 - Hỏa Thổ thương quan nghi thương tẫn, Kim Thủy thương quan yếu kiến quan
> Hỏa đây là nhật chủ Đinh, Thương quan là Mậu Thổ, cần thương tận Quan tinh là Nhâm Thủy, vì Đinh Nhâm kết hợp thành Mộc thì sự xung đột càng lớn, vì thế rất cần thương tận Quan tinh.

> Tân kim nhật chủ, Thương quan là Nhâm Thủy, ngược lại rất thích gặp Quan Bính. Vì nếu Bính Tân gần trụ là thiên can hợp, hướng tình là Thủy, nên thích hợp với Thương quan Nhâm.

2 - Mộc Hỏa kiến quan, quan hữu vượng, Thổ Kim quan khứ phản thành quan
> Mộc là nhật chủ, sinh Hỏa là Thương quan, Quan tinh là Kim; quan tinh được vượng, vì thế không sợ nhau
Đây cũng nhận thấy là do Ất Mộc sinh Bính hỏa, gặp Canh Quan; điều kiện thuận lợi Ất Canh hợp ý là Kim là cùng hành với Quan, nên Quan tinh được vượng, vì vậy không ngại gặp Thương.

> Nhật chủ là Kỉ Thổ, Canh Kim là Thương, gặp Giáp Quan; nếu Giáp Kỉ hợp nhau thì Quan ẩn trong Kỉ, Thương quan không tận diệt được quan tinh, lại có thể biến hóa thành Quan cách, nên gọi "khứ phản thành quan".

3- Duy hữu Thủy Mộc thương quan cách, tài quan lưỡng kiến thủy vi hoan.
Quí nhật chủ sinh tháng Dần là Thương quan cách (Giáp), quan tinh là Mậu; Mậu Quí mà hợp hóa Hỏa, tức Tài tinh vượng, Thương quan Mộc gặp Tài là đại phát!

Những câu trên là biệt cách của "Thương quan gặp Quan" vì thế phải nhận định là chỉ nói về Âm nhật chủ mới thành như thế.

Chú ý : *** Các bạn lại phải nhớ rằng, khi "thiên can hợp" tức là cả hai hòa vào nhau; mà nguyên tắc Xung Khắc là phải "thấy mặt" thì mới "diệt" hay "sinh" được. Như Ất cách trụ với Canh thì Ất-Canh thật sự không hòa hợp với nhau được, Bính vì thế mới diệt được Canh ***

Nói về thuộc tính của Thương Quan và Quan thì hai thập thần này cùng dương hay cùng âm nên sự xung đột mạnh mẽ; nên ở tứ trụ bất lợi cho cả hai thì ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp.

Tính chất của Thương quan là do TA sinh nên tự kỷ cao, có mục đích thành tựu, thích thanh danh rõ ràng, thích được cảm kích mà lại trọng thi ân. Môi trường hoạt động của Thương quan rộng lớn, đủ mọi lĩnh vực, tựu chung đặc điểm là Sáng Tạo, Khai Thác, Phát Minh. Thương quan tính là khắc Quan tinh, nghĩa là không thích bị câu thúc, bất tuân thủ qui tắc (vì Quan tinh có tính cách là kềm chế nhật chủ). Vì thế Thương quan gặp Quan đương nhiên là có họa vì gặp phản kháng.

Nói thế tức là Thương quan cách vượng, tứ trụ nhật chủ cũng phải vượng, Quan tinh không kém thế thì mới tiêu diệt lẫn nhau. Một trong những tiêu chí này là nhược thì không cần quá lo sợ. Bởi vì đã có sự nhún nhường của Ta, hoặc là tính khí đối ngoại của ta, hay là sự kềm chế ta.

Nguyên lý ngũ hành lại cho biết rằng, hễ vật cực tất phản, nghĩa là những gì nói trên đều Vượng nhưng cũng không nên thái quá. Nếu thái quá thì cá tính thay đổi ở vượng cực dễ biến sang suy đồi, như phóng đãng, bất tuân pháp luật, lễ giáo, dễ phạm tội ác. Chính vì thế mà lúc này mới lo ngại "trăm đường họa" ở vận hạn đến.

kimcuong
03-06-12, 16:30
Dưới đây là bài Luận về Thương quan cách trong Tam Mệnh Thông Hội (Polaris dịch). Các bạn sẽ đọc được những điều lý thuyết mà tôi nêu ở trên, nhưng không nhấn mạnh vào Âm Can thì không thể nào áp dụng được vào tứ trụ. (Phần in nghiêng là Hán Việt)

tam mệnh thông hội
Luận Thương Quan

Thương Quan giả, ngã sinh bỉ chi vị, nãi Giáp kiến Đinh, Ất kiến Bính chi loại, Giáp dụng Tân vi Quan, Đinh hỏa thừa vượng, đạo ngã chi khí, khắc chế Tân kim, sử bất phụ Giáp vi quý, cố danh Thương Quan. Thương Quan cách vụ yếu thương tẫn, phương tác quý khán, nguyên hữu Quan tinh, thương chi tắc trọng.

Thương Quan là để gọi cái ta sinh ra, như Giáp kiến Đinh, Ất kiến Bính,…; Giáp dụng Tân làm Quan, Đinh hỏa thừa vượng vốn là khí tiết thân khắc chế Tân kim, khiến cho không trợ Giáp là quý, nên gọi là Thương Quan. Việc của Thương Quan cách là cần thương tẫn (tận diệt), mới được xem là quý, nguyên cục còn Quan tinh, thương tổn rất nặng.

Kinh vân: "Thương Quan kiến Quan, họa hoạn bách đoan" thị dã. Thương Quan tuy hung, nãi ngã sở sinh, tự gia chi vật, thương tẫn tắc năng sinh Tài, Tài vượng tắc năng sinh Quan, tạo hóa triển chuyển hữu tình. Như nguyệt lệnh tại Thương Quan, Tứ Trụ tác hợp kết cục, giai tại thương vị, vô xung vô phá, bất kiến nhất điểm Quan tinh, vị chi thương tẫn. Hựu hữu nguyệt chi Thương Quan, thời thượng Thương Quan, Tứ Trụ vô Quan tinh, diệc vị thương tẫn. Canh Thân vượng, Tài vượng hoặc Ấn vượng, danh tiêu kim bảng, nhất phẩm quý nhân. Thử cách chủ đa tài nghệ, ngạo vật khí cao, tâm hiểm vô kỵ đạn, đa mưu thiểu toại, lộng xảo thành chuyết, thường dĩ thiên hạ chi nhân bất như Kỷ, nhi nhân diệc đạn chi ác chi. Thương Quan vô Tài chủ bần cùng, cái sinh Tài khí giả tức Thực Thần Thương Quan, đạo Tài khí giả tức Thất Sát Quan tinh, sở dĩ Thương Quan yếu kiến Tài, bất yếu kiến Quan. Giả như Giáp sinh Ngọ nguyệt, mộc bất nam bôn, Thân thế thái nhu, khởi khả tái phùng kim chế? Kim năng đạo thổ chi khí, sở dĩ bất yếu kiến Quan. Ký vô Quan tinh, nhi trụ khước vô nhất điểm Tài khả thị, tuy thông minh cơ xảo, bất quá hư danh hư lợi.

Kinh sách ghi rằng: "Thương Quan kiến Quan, họa hoạn bách đoan" chính là thế. Thương Quan tuy hung, là tượng chính mình sinh ra, khi thương tẫn thì có thể sinh Tài, Tài vượng thì sinh Quan, tạo hóa xoay vần hữu tình. Như nguyệt lệnh tại Thương Quan, Tứ Trụ hợp thành kết cục, đều là ở trụ này, khi vô xung vô phá, không thấy một chút Quan tinh, gọi là thương tẫn.

Lại có, chi tháng Thương Quan, giờ xuất Thương Quan, Tứ Trụ vô Quan tinh, cũng gọi là thương tẫn. Nhất là Thân vượng, Tài vượng hoặc Ấn vượng, danh đề bảng vàng, nhất phẩm quý nhân. Cách này chủ đa tài nghệ, chí khí cao ngạo, lòng gai góc không kiêng nể ai, đa mưu nhưng ít thành, thường chữa tốt thành hư, cho rằng thiên hạ không ai bằng mình và họ cũng e dè cái hung dữ của mình. Thương Quan mà không có Tài chủ bần cùng, do cái sinh Tài tức là Thực Thần Thương Quan, lấy bớt (tiết khí) Tài là Thất Sát Quan tinh, cho nên Thương Quan cần gặp Tài, không cần gặp Quan. Giả như Giáp sinh Ngọ nguyệt, mộc không thể hướng phương Nam nên Thân thế cực mỏng, sao có thể gặp thêm Kim khắc chế? Kim tiết bớt khí thổ, cho nên bất cần kiến Quan. Đã không Quan tinh và trụ cũng không cậy nhờ được Tài, tuy thông minh cơ xảo, bất quá cũng chỉ hư danh hư lợi.

Kinh vân: "Thương Quan vô Tài khả ỷ, tuy xảo tất bần" thị dã. Thương Quan cách dụng Tài, diệc hữu dụng Ấn giả.

Kinh sách nói: "Thương Quan không cậy được Tài, tuy khéo nhưng nghèo" là thế. Thương Quan cách dụng Tài, cũng có khi dụng Ấn.

《 Thiên Huyền phú 》 vân: Thương Quan dụng Ấn nghi khử Tài, dụng Tài nghi khử Ấn, thảng sử Tài Ấn lưỡng toàn, tương hà phát phúc? Thân vượng giả dụng Tài, Thân nhược giả dụng Ấn, dụng Ấn giả tu khử Tài phương năng phát phúc, dụng Tài giả bất luận Ấn diệc chủ hanh thông, Thương Quan dụng Ấn, bất kỵ Quan Sát, khử Tài phương phát, nguyên phạm Thương Quan, tu yếu kiến Tài tắc phát. Thương Quan tối hỷ hành Tài vận, Ấn thụ Thân vượng thứ chi, bất hỷ hành Quan hương, Tứ Trụ Thương Quan đa nhi kiến Quan giả, bất nghi phức hành thương vận, nhất vị vô phương.

《 Thiên Huyền phú 》 ghi rằng: Thương Quan dụng Ấn nên khử Tài, dụng Tài nên khử Ấn, giả như Tài Ấn đều đủ, lấy gì phát phúc? Người Thân vượng dụng Tài, kẻ Thân nhược dụng Ấn, khi dụng Ấn cần khử Tài mới năng phát phúc; dụng Tài không luận Ấn cũng chủ hanh thông, Thương Quan dụng Ấn, bất kỵ Quan Sát, khử Tài thì mới phát, nguyên cục phạm Thương Quan, cần phải gặp Tài tắc phát. Thương Quan tối hỷ hành Tài vận, kế đến là Ấn thụ Thân vượng; bất hỷ hành đất Quan, Tứ Trụ Thương Quan nhiều mà gặp Quan, không nên hành thương vận hai ba lần, nếu chỉ một thì không sao.

Hựu viết: Thương Quan cách vụ yếu thương tẫn, nhược trụ kiến Thương Quan, nhi Quan tinh ẩn hiển, thương chi bất tẫn, tuế vận tái kiến Quan tinh, Quan lai thừa vượng, tái kiến hình xung phá hại, nhận Sát khắc Thân, Thân nhược Tài vượng, tất chủ đồ lưu tử vong, ngũ hành hữu cứu, diệc tàn tật. Nhược Tứ Trụ vô Quan nhi ngộ thương Sát trọng giả, vận nhập Quan hương, tuế quân hựu ngộ, nhược bất mục tật, tất chủ tai phá.

Hựu viết: việc của Thương Quan cách cần thương tẫn (Quan tinh), nếu trụ kiến Thương Quan mà Quan tinh ẩn hiện, diệt mà không hết, tuế vận lại thấy Quan tinh, Quan đắc vượng, thêm hình xung phá hại, Nhận Sát khắc Thân, Thân nhược Tài vượng, tất chủ tù tội biếm đày mà chết, tứ trụ có hành cứu cũng tàn tật. Nếu Tứ Trụ vô Quan mà ngộ Thương Sát trọng, vận nhập Quan hương, tuế quân lại gặp, nếu không mục tật tất chủ tai phá.

Kinh vân: ngũ hành Thương Quan, duy hỏa nhân thổ Thương Quan, thổ nhân kim Thương Quan kỵ kiến Quan tinh, nhược kim nhân thủy, thủy nhân mộc, mộc nhân hỏa, bất kỵ. Cái hỏa dĩ thủy vi Quan, dĩ thổ vi thương, thủy úy thổ khắc, thổ đắc thủy vô ích; thổ dĩ mộc vi Quan, dĩ kim vi thương, mộc úy kim khắc, kim đắc mộc vô ích, sở dĩ hỏa thổ Thương Quan cách kỵ kiến Quan tinh. Kim dĩ thủy vi thương, dĩ hỏa vi Quan, thủy tuy khắc hỏa, nhược kim hàn thủy lãnh, bất đắc hỏa ôn, nan dĩ tể vật, huống thủy đắc hỏa thành ký tể chi công; thủy dĩ mộc vi thương, dĩ thổ vi Quan, mộc tuy khắc thổ, nhược thủy phiếm mộc phù, bất đắc thổ chỉ, nan dĩ tồn hoạt, huống mộc đắc thổ thành tài bồi chi lực; mộc dĩ hỏa vi thương, dĩ kim vi Quan, hỏa tuy khắc kim, nhược mộc phồn hỏa tức, bất đắc kim tước thoát, nan dĩ thông minh, huống kim đắc hỏa thành khí vật chi tượng, sở dĩ kim thủy mộc Thương Quan cách bất kỵ Quan tinh.

Sách nói: ngũ hành Thương Quan, duy chỉ hỏa nhân thổ Thương Quan, thổ nhân kim Thương Quan là kỵ gặp Quan tinh; còn kim nhân thủy, thủy nhân mộc, mộc nhân hỏa, thì không kỵ.

Lời đó là do hỏa lấy thủy làm Quan, lấy thổ làm Thương, thủy sợ thổ khắc, thổ đắc thủy chẳng ích lợi gì; thổ lấy mộc làm Quan, lấy kim làm Thương, mộc sợ kim khắc, kim đắc mộc cũng vô ích, cho nên hỏa thổ Thương Quan cách kỵ kiến Quan tinh.

Kim lấy thủy làm Thương, lấy hỏa làm Quan, thủy tuy khắc hỏa, nhưng kim hàn thủy lãnh, không đắc hỏa làm ấm, khó mà thành vật có ích, huống hồ thủy đắc hỏa như công lao đã thành (tượng thái quá được giúp - Thủy Hỏa Ký Tế);

Thủy lấy mộc làm Thương, lấy thổ làm Quan, mộc tuy khắc thổ, nhưng thủy tràn thì mộc trôi, không được đê (thổ) ngăn, khó mà sinh tồn, huống chi mộc đắc thổ như cây được đất vun bón;

Mộc lấy hỏa làm Thương, lấy kim làm Quan, hỏa tuy khắc kim, nếu mộc nhiều hỏa tắt, bất đắc kim đẽo gọt khó mà thông minh, huống chi kim đắc hỏa luyện thành vật có ích.

Cho nên kim thủy mộc Thương Quan cách bất kỵ Quan tinh.

Cố kinh vân: "Thương Quan hỏa thổ nghi thương tẫn, kim thủy Thương Quan yếu kiến Quan, mộc hỏa kiến Quan Quan yếu vượng, thổ kim Quan khử phản thành Quan, duy hữu thủy mộc Thương Quan cách, Tài Quan lưỡng kiến thủy vi hoan" thị dã.

Thế nên sách dạy:
"Thương Quan hỏa thổ nghi thương tẫn,
Kim thủy Thương Quan yếu kiến Quan,
Mộc hỏa kiến Quan Quan yếu vượng,
Thổ kim Quan khử phản thành Quan,
Duy hữu thủy mộc Thương Quan cách,
Tài Quan lưỡng kiến thủy vi hoan" thị dã.

kimcuong
03-06-12, 17:55
Bài dịch dưới đây của toahuongqui cũng cho ta thấy một vấn nạn lớn nhất khi tìm hiểu các lý thuyết mà không thể áp dụng vào tứ trụ được. Lý do cản trở cơ bản là hiểu các lý giải chưa "đủ" hoặc hiểu lầm. Vấn đề này thì toàn bộ những môn sinh Tử Bình đều vấp phải, chẳng chừa "thâm niên" hay "nhập môn".

Nhân nói về Thương Quan nên tổng hợp mọi phản hồi của nhiều người để các bạn cùng nghiệm giải.


Hoàng Đại Lục - Mệnh Lý Tạp Luận黄大陆 - 命理杂论 (http://blog.sina.com.cn/s/blog_4d4f37290100f0yi.html)
伤官见官果难辨 可见不可见
thương quan kiến quan quả nan biện khả kiến bất khả kiến
Thương quan gặp quan quả khó phân biệt, có thể thấy được, không thể nhận ra.

Nhớ kỹ năm đó ban đầu học thầy tướng số không lâu, người viết tham gia mệnh lý hàm thụ một đại sư, được bí truyền có vài đoạn ngữ, trong đó một cái chính là "Thương quan gặp quan, họa trăm mầm mối, nếu không có ngồi lao, cũng làm thương tàn". ("Thương quan kiến quan, vi họa bách đoan, nhược phi tọa lao, dã đương thương tàn") Đem khẩu quyết này dùng trong thực tế, mấy lần đầu đều thu được thần kỳ ứng nghiệm, lấy người khác tính được trố mắt đứng nhìn, thiếu chút nữa hù dọa vỡ mật. Sau lại không biết sao lại thành chiêu Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, lúc nghiệm lúc không. Vài lần vớ được thương quan gặp quan, liền thiết khẩu thẳng đoạn lúc nào người ta có quan tai, có thương tai, họ lại nhẹ nhàng lắc đầu, nói là không tai nạn, không khó khăn ngược lại còn phát tài thăng quan! Mới đầu cũng hoài nghi qua là thời thần bát tự của người ta không đúng, nhưng số lần không nghiệm ngày càng gia tăng, cũng không còn tiếp tục hoài nghi như vậy nữa.

Sau lại đem vấn đề này hỏi Khuyên Trung đại sư, đại sư dụng bát tự ngũ hành vượng suy biến hóa tinh tế cùng đạo lý sinh khắc chế hóa phức tạp giải thích cho ta một phen, ta chỉ có thể biết nó đúng mà không biết tại sao nó đúng.

Vì hiểu lấy siêng năng bù kém cỏi, người viết liền khổ cứu mệnh học điển tịch. Phát hiện vấn đề thương quan gặp quan của cổ nhân, trình bày và phân tích tương đối hỗn độn, kết luận không nhất trí.

Đầu tiên, là sách Uyên Hải Tử Bình cùng Tam Mệnh Thông Hội, nhấn mạnh "Thương quan cốt phải nên thương tận, thương bất tận, quan đến thừa vượng, họa của nó không thể tận ngôn." (" Thương quan vụ yếu thương tẫn, thương chi bất tẫn, quan lai thừa vượng, kì họa bất khả tẫn ngôn.")

Nhưng theo sau, đem thương quan chia làm năm chủng loại hình kim mộc thủy hỏa thổ mà nói, nào là "Hỏa thổ thương quan nên thương tận, kim thủy thương quan mừng gặp quan; mộc hỏa thương quan quan nên vượng, thổ kim quan khứ phản thành quan; duy có thủy mộc thương quan cách, vui mừng thủy thấy cả tài quan." (" Hỏa thổ thương quan nghi thương tẫn, kim thủy thương quan hỉ kiến quan; mộc hỏa thương quan quan yếu vượng, thổ kim quan khứ phản thành quan; duy hữu thủy mộc thương quan cách, tài quan lưỡng kiến thủy vi hoan.")

Điều này mâu thuẩn với "Thương quan cốt phải nên thương tận", chẳng lẽ kim thủy, mộc hỏa cùng thủy mộc - ba loại thương quan này không thương tận quan tinh sao? Chẳng lẽ câu "Thương quan cốt phải nên thương tận" chỉ áp dụng ở hỏa thổ thương quan cùng thổ kim thương quan? Nếu như tác giả thật sự có ý này, vì sao ở chương "Luận thương quan" chỉ nói "Như dụng thương quan cách, can chi tuế vận cũng không muốn gặp quan tinh, như gặp quan tinh, gọi là thương quan gặp quan, họa trăm mầm mối." ("Như dụng thương quan cách, kiền chi tuế vận đô bất yếu kiến quan tinh, như kiến quan tinh, vị chi thương quan kiến quan, vi họa bách đoan"), mà không có kèm theo điều kiện hạn chế "Trừ kim thủy, mộc hỏa, thủy mộc thương quan ở ngoài"?

Tiếp theo, có người còn nghĩ luận thương quan theo nhật nguyên âm dương. Thần Phong Thông Khảo - thương quan thập luận nói: "Giáp mộc thương quan dần ngọ toàn bộ, hỏa minh mộc tú lợi danh kiên, hành vận sợ nhất tài quan vượng, thấy tuất đi tới trở thọ nguyên." (" Giáp mộc thương quan dần ngọ toàn, hỏa minh mộc tú lợi danh kiên, hành vận tối phạ tài quan vượng, kiến tuất hành lai trở thọ nguyên.")

Nhìn xem, giáp mộc nhật nguyên mộc hỏa thương quan chính là "Hành vận sợ nhất tài quan vượng", mà tương đồng mộc hỏa thương quan ất mộc nhật nguyên lại là "Vận gặp quan sát chuyển thành tốt ". Hỏa thổ thương quan, bính hỏa nhật nguyên thì "Như gặp thủy vận bị thương diệt ", mà đinh hỏa nhật nguyên lại là "Vận gặp ấn thụ liền quan sát, thóa thủ thành gia thục dữ trù" (*) . Thổ kim thương quan, mậu thổ nhật nguyên thì "Trụ trung cách sợ mộc tới ", mà kỷ thổ nhật nguyên lại là "Vận gặp quan sát chung thân phúc" . Kim thủy thương quan, "Canh nhật thương quan mừng gặp quan" , mà tân nhật thương quan lại "Gặp quan thấy sát phản thành cừu" . Tương tự thủy mộc thương quan, nhâm thủy thương quan hỉ gặp quan, quý thủy thương quan sợ gặp quan.

(*) "Vận gặp ấn thụ liền quan sát, thóa thủ thành gia thục dữ trù"
Nghĩa là vận gặp Ấn cùng Quan hay Sát, có thể lập gia đình. Ý nói nhật chủ Đinh, thương quan là Mậu hợp với Quí là Sát. Thiên can tương hợp thường gọi như là vợ chồng, vì Mậu dương không khắc Quí âm, ngược lại là tương hợp.

kimcuong
03-06-12, 18:00
Ngoài ra, Tích Thiên Tủy còn có một kiến giải khác: "Nói chung thương quan có tài, đều có thể gặp quan, thương quan không có tài, đều không thể gặp quan. Lại đòi hỏi xem thân cường thân nhược, hợp tài quan ấn thụ tỉ kiên bất đồng lại vừa. Không nên phân kim mộc thủy hỏa thổ."

Các ý kiến trên, hoặc tự mình mâu thuẫn, hoặc mâu thuẫn lẫn nhau, cái nào đúng cái nào sai, ai đúng ai sai, cũng không thấy có người nghiên cứu, cũng không thấy có ai bình phán. Khiến cho rất nhiều người học vừa thấy thương quan gặp quan, không phải hồ ngôn loạn ngữ, liền là như bị gậy đánh vô đầu, trước mắt tối sầm, chẳng phân biệt nổi đông tây. Cuối cùng trích dẫn đúng vài câu đâu là nguyên bản của tử bình lão nhân gia, đâu là của người đời sau viết thêm vào đây? Bởi vì sách tử bình truyền lại từ rất xưa, trong sách truyền lầm, sao lầm nhiều chỗ lắm, chúng ta cũng không thể nào khảo chứng. Thật sự là "Thương quan gặp quan quả khó phân biệt".

Làm sao bây giờ? Dưới tình huống không biết tử bình nguyên ý, chúng ta chỉ có thể suy đoán : giả như kim thủy, mộc hỏa, thủy mộc ba loại thương quan này hỉ gặp quan tinh, như vậy phải tồn tại một loại "Thương quan hỉ quan cách" hoặc "Thương quan dụng quan cách" . Nhưng tra Uyên Hải Tử Bình trong ngoài 36 cách, không gặp cách này. Tái tra Tam Mệnh Thông Hội hơn mười cách, cũng không thấy tên mục cách cục. Chỉ ở Tam Mệnh Thông Hội - luận thương quan, trong một chương có một vài câu nói cho qua đề tài "Thương quan dụng quan", nguyên văn là: "Thương quan dụng quan, ở năm tháng cần phải đoạt quan vận, ở nhật thời không nên bị thương, vừa thấy bị thương, họa không thể nói." ("Thương quan dụng quan, tại niên nguyệt tất yếu bác quan vận, tại nhật thì bất nghi bị thương, nhất kiến bị thương, họa bất khả ngôn."). Có nghĩa là quan tinh ở vị trí năm tháng, đại vận sẽ thương tận quan tinh này, mà ở vị trí nhật thời thì không thể bị thương, thương thì họa không thể nói. Ở đây

một - không phân ngũ hành thương quan

hai - chẳng phân biệt nhật nguyên âm dương

ba - không luận nhật nguyên vượng suy

bốn - không luận có tài, không có tài

luận bàn chỉ là vị trí quan tinh trong bát tự, cùng những kiến giải thương quan gặp quan nói trên không hề chung chỗ. Tử Bình Chân Thuyên luận đến cách này thì nói: "Có thương quan dụng quan, cách khác không cần, kim thủy độc nghi, nhiên nên tài ấn phù trợ, thương quan không thể cùng thấu.

Như Mậu Thân, Giáp Tí, Canh Ngọ, Đinh Sửu : tàng quý lộ đinh, mậu giáp phụ trợ, quan thêm được lộc, cho nên là cách Thừa tướng. Nếu cô quan không có phù trợ, hoặc quan thương đều thấu, thì phát phúc không lớn.

Nhìn xem, phạm vi thương quan dụng quan càng lúc càng nhỏ, vừa vặn áp dụng ở kim thủy thương quan! Nhưng lại đòi hỏi "Tài ấn tương phù, thương quan không thể cùng thấu" ("Tài ấn tương phụ, bất khả thương quan tịnh thấu"). Có nghĩa là: cứ việc là kim thủy thương quan, cũng không thể không có tài ấn tương phù, cũng không thể cho phép thương quan cùng quan tinh đều thấu thiên can! Như vậy chiết giảm xuống 7, 8 phần rồi, câu nói kia "Kim thủy thương quan hỉ gặp quan" chỉ còn lại không tới một phần.

Nhìn lại mệnh Thừa tướng dẫn trong sách: Mậu Thân, Giáp Tí, Canh Ngọ, Đinh Sửu

Thân tý hợp không xung ngọ hỏa quan tinh, đinh hỏa tọa hạ có sửu thổ ấn tinh hóa quan sinh thân, căn cứ có quan trước luận quan thủ cách, mệnh này chính là cách quan ấn bình thường. Đại vận là ất sửu, bính dần, đinh mão, mậu thìn, kỷ tị, dọc theo đường đi địa chi đều có tài ấn chế hóa thương quan, khiến thương quan không cách nào khắc quan phá cách ( thương quan gặp quan, diệu nhập ấn tài là giải ), cho nên mệnh chủ quan lộ thẳng tiến, quý đến Thừa tướng. Nên nói, mệnh này không tính là "Thương quan dụng quan cách" .

Có thể thấy, trong cổ điển mệnh tịch không tồn tại ý nghĩa chặt chẽ "Thương quan hỉ quan cách" hoặc "Thương quan dụng quan cách" . Hiểu ra chính quan là thuộc thiện thần, là thần quý nhất trong thập thần, đứng đầu sáu cách, lấy một vị là đẹp, nhiều thì giáng cách, thất sát hỗn thì phá cách, còn muốn có tài ấn tương phù, mà không thể gặp hình xung khắc hợp, như thế quý vật được cưng chiều, có thể nào làm bạn cùng thương quan như sói như cọp và tạo thành một cách đây? Tại sao Tử Bình Chân Thuyên nhấn mạnh thương quan dụng quan nên có "Tài ấn tương phù" đây? Không phải là vì tài ấn có thể chế hóa thương quan, khiến cho không thể khắc hại quan tinh sao? Chỉ có trước đem thương quan chế hóa rồi, chính quan mới có thể đặt chân, đây chẳng phải là sự tình rất rõ ràng sao? Nếu thương quan cũng cần có tài ấn tương phù, như vậy không phải cấu thành thương quan sinh tài cách cũng chính là cấu thành thương quan phối ấn cách, đâu còn gì ý nghĩa chính thức "Thương quan hỉ quan cách" hoặc "Thương quan dụng quan cách" đây? Chẳng phải nguyên nhân chính là vì như thế, chúng ta mới không tìm được loại cách cục này trong Uyên Hải Tử Bình sao?

kimcuong
03-06-12, 18:10
Nếu như những điều suy đoán nói trên đứng vững, có nghĩa là không tồn tại cái gọi là "Thương quan hỉ quan cách" hoặc "Thương quan dụng quan cách" . Nhưng nếu như nói, vô luận kim mộc thủy hỏa thổ thương quan, đều phải thương tận quan tinh, thương tận liền là "Đại quý nhân ", thương bất tận sẽ phá cách chuốc tai họa. Như vậy, thì sao giải thích có bát tự thương quan thấy quan tinh, dù không có tài ấn tương phù, nhưng sự thực là có cát không có hung đây? Người viết cho rằng, muốn biết rõ vấn đề này, trước hết cần phải biết rõ vấn đề thương quan thương tận.

Thế nào là "Thương quan thương tận"? Uyên Hải Tử Bình - luận thương quan nói: " Như dụng thương quan cách, can chi, tuế vận cũng không muốn gặp quan tinh, như gặp quan tinh, gọi là thương quan gặp quan, họa trăm mầm mối." Có nghĩa là tứ trụ can chi cùng tuế vận đều phải không gặp một điểm quan tinh, mới gọi là "Thương quan thương tận". Sách Tam Mệnh Thông Hội cùng giữ nguyên kiến giải này. Kiến giải này có thể tin được không? Tiền hiền nói như vậy, người viết không dám xằng bậy phê phán thị phi, chỉ có đem ví dụ thực tế vài người ra làm chỗ dựa:

1、minh triêu thái tổ chu nguyên chương mệnh :
mậu thìn - nhâm tuất - đinh sửu - đinh mùi

Chu Nguyên Chương nhâm thủy vô căn, đại vận đoạn đường hỏa thổ, hoàn toàn thương tận rồi quan tinh, cho nên quý khí lớn nhất.

2、công bộ thượng thư mao sưởng hi mệnh :
đinh sửu - đinh mùi - bính tí - kỷ sửu

Mao Sưởng Hi mặc dù thương tận rồi quan tinh tý thủy, nhưng mà trung niên đại vận là quý mão nhâm dần, kỷ thổ mặc dù có thể thương tận quan sát, nhưng hiển nhiên không thương sạch sẽ như lão Chu.

3、tài chánh tổng trường dương sĩ tương mệnh :
canh thân - giáp thân - kỷ sửu - quý dậu

4、khảo thí viện trường mãi cảnh đức mệnh :
canh thìn - giáp thân - kỷ sửu - kỷ tị

Dương Sĩ Tương cùng Mãi Cảnh Đức giáp mộc quan tinh ngồi thân, thân trung nhâm thủy sinh giáp mộc, cũng không thể như lão Chu đem quan tinh đuổi tận giết tuyệt. Nhất là Mãi Cảnh Đức, thân thìn củng thủy sinh giáp mộc, quyền lợi càng nhỏ.

5、ngoại giao bộ trường hồ chí cường mệnh :
mậu tí - mậu ngọ - đinh sửu - nhâm dần

Những bát tự không có quan tinh kia vì sao không quý? Bởi vì cấu không thành thương quan khứ quan cách, chỉ có khả năng cấu thành cách cục thương quan sinh tài hoặc thương quan hỉ tỉ, vì vậy không quý.

6、thượng hải đại hanh chu bác tuyền mệnh :
mậu tuất - tân dậu - mậu tuất - bính thìn

Bát tự trùm Thượng Hải Chu Bác Tuyền, nhân thìn tuất xung, bính hỏa vô căn, không thể cấu thành thương quan phối ấn, chỉ có thể cấu thành thương quan hỉ tỉ cách, tẩu giáp tý ất sửu vận mặc dù gặp quan sát, nhân có thương quan hồi khắc, khiến cho không thể khắc tỉ kiếp mà phá cách, nên mệnh chủ có thể trên Bến Thượng Hải long tranh hổ đấu, dương danh lập vạn, được xưng đại gia công thương nghiệp "Nửa Thượng Hải". Đến sau bính dần vận, ấn tinh đắc địa, nhân có tỉ kiếp hóa tiết mà không thể cấu thành thương quan phối ấn cách, cho nên sự nghiệp như mặt trời lặn phía trời tây, không còn chói lọi. Cuối cùng trở thành một người trú tại khu hộ ở lều, làm tạp vụ công - trường kỳ bị quần chúng giám sát.

7、kiến trúc công nhân vương mỗ nhân mệnh :
mậu tuất - tân dậu - mậu tuất - mậu ngọ

Mệnh công nhân xây dựng Vương Mỗ Nhân, mới xem so với Chu Bác Tuyền không sai biệt lắm, nhưng nhìn kỹ bất đồng. Mệnh Vương mỗ thời chi là ngọ, nên dẫn xuất đinh hỏa ấn tinh trong tuất thổ, thông qua dậu tuất hại mà khắc chế thương quan, cấu thành thương quan phối ấn cách. Đáng tiếc đại vận thuận hành, đoạn đường thủy hương, phá thương quan phối ấn cách, cho nên chỉ có cả ngày cực khổ bưng gạch gánh bùn.

8、gia đình phụ nữ lí mỗ nhân mệnh :
mậu tuất - canh thân - kỷ mùi - mậu thìn

Mệnh nội trợ Lý mỗ nhân, cơ bản giống Chu Bác Tuyền, chỉ vì đại vận nghịch hành hỏa địa, không thể cấu thành thương quan phối ấn cách, phá hủy thương quan hỉ tỉ cách, nên sự nghiệp không thành, cuộc sống khó khăn. Bính thìn vận sau ly hôn, cô đơn một bóng, lay lắt qua ngày. Sau nhập ất mão vận, cách thành thực thương chế sát, mệnh chủ mới bắt đầu làm điểm tâm buôn bán nhỏ, sinh kế cũng chỉ tùy theo lúc có chút sinh cơ.

9、địa sản thương nhân hồ mạnh bình mệnh :
đinh sửu - đinh mùi - bính ngọ - kỷ sửu

10、khai phát công ti trương kinh lí mệnh :
mậu tuất - đinh tị - đinh mùi - bính ngọ

Bát tự địa sản thương nhân Hồ Mạnh Bình cùng Trương giám đốc, thuộc về thương quan sinh tài cách, không có ấn tinh, cho nên chỉ phú không quý. Hồ mệnh có sửu thổ hai kim khố, hỏa sinh mùa hè kim trùng trùng điệp điệp giàu có vạn chung, nên phát cự tài. Bát tự Trương giám đốc không có tài, chỉ dựa vào hành vận ngộ tài, cho nên phát tài không lớn.


Mười người này bát tự thương quan cách, năm mệnh trước đều thấy một điểm quan tinh, lẽ ra không có thương tận quan tinh, là mệnh phá cách, song mệnh chủ mỗi người lại sự nghiệp có thành, phú quý phi phàm. Năm mệnh sau, bát tự không gặp một điểm quan tinh, là mệnh thương quan cách, lẽ ra đúng thương quan thương tận là mệnh đại quý nhân, nhưng mệnh chủ không có lấy một người có quý mệnh làm quan, trong đó người thứ 7 và thứ 8 hiện còn đang gắng sức kiếm miếng cơm manh áo.

Tại sao bát tự thương quan cách có một điểm quan tinh ngược lại đại quý, hoàn toàn không có quan tinh lại không quý? Vấn đề vượt ra ngoài việc giải thích cho đúng câu “Thương quan thương tận”. Ví dụ mệnh nhóm người Chu Nguyên Chương chứng thực: cái gọi là "Thương quan thương tận ", không phải là tứ trụ bát tự không thể thấy một điểm quan tinh, hoàn toàn trái lại, chính là đòi hỏi bát tự thấy một điểm quan tinh, mà quan tinh này lại bị thương quan khắc tận, không thể đặt chân, lại không thấy tài ấn bảo hộ, mới gọi là "Thương quan thương tận". Nói cách khác, bát tự trước phải có quan có thể thương, sau đó mới luận vấn đề thương tận hay không thương tận.

kimcuong
03-06-12, 18:23
Đã thấu hiểu rồi vấn đề thương quan thương tận, chúng ta còn cần biết rõ ràng bốn loại cách cục khác, tức:


khứ quan tựu thực cách,
thương quan giá sát cách,
sát yêu thực chế cách
khứ quan tồn tài cách.


Nếu như không thể nhận ra bốn loại cách cục này, đụng phải thương quan gặp quan e rằng không biết phải làm sao.

1. Cái gì là khứ quan tựu thực cách đây? Chính là chính quan đương nguyệt lệnh, có thực thương phá quan cách, vì vậy khứ quan không dùng mà chuyển dùng thực thương.

11) Lệ như vận động viên điền kinh Lưu Tường mệnh:
Quí Hợi - Kỉ Mùi - Nhâm Dần - Ất Tị

Nguyệt lệnh một vị chính quan bị thời can ất mộc thương quan khắc phá hư, cách thành khứ quan tựu thực, không đi quan lộ mà theo nghiệp thể thao, công thành danh toại.

12) Thêm như diễn viên điện ảnh Châu Tinh Trì mệnh:
Nhâm Dần - Bính Ngọ - Tân Mão - Nhâm Thìn

Cũng là khứ quan tựu thực cách, mệnh chủ từ 1992 năm nhâm thân khởi thương quan gặp quan, phát tài vô số. Như loại này mệnh khứ quan tựu thực cách, sẽ không có bất hạnh thương quan gặp quan, họa trăm mầm mối.

2- Cái gì là thương quan giá sát cách đây? Chính là thương quan đương lệnh, bát tự có thất sát hoặc hai quan tinh trở lên cùng chống đỡ, không có ấn tinh hóa sát. Cách này Uyên Hải Tử Bình gọi "Thương quan đái sát cách". Chú ý: bát tự có hai quan tinh trở lên, lấy sát luận, mà không lấy thương quan gặp quan luận (có câu thanh cách là ngoại lệ). Đây là Tam Mệnh Thông Hội - luận thương quan nói "Thương quan nếu gặp quan tinh trùng trùng điệp điệp, không lấy quan tinh luận" ("Thương quan nhược kiến quan tinh trọng điệp, mạc tác quan tinh luận").

13) Lệ như Thiếu tướng Lữ trưởng Trần Hiếu Uy mệnh:
Quí Tị - Quí Hợi - Tân Hợi - Quí Tị

14) cùng với Minh Hiếu Tông Hoàng đế Chu Hữu Đường mệnh:
Canh Dần - Giáp Thân - Kỉ Mão - Giáp Tí

chính thuộc về quý mệnh, quan nhiều là sát không sợ thương quan gặp quan.

3- Cái gì là sát yêu thực chế cách đây? Chính là thất sát hoặc quan tinh (phải là hai trở lên) đương lệnh, một loại quý cách mong cầu thực thương đến chế.

15) Như Minh triều Binh bộ Thượng thư Hoàng Quang Thăng mệnh:
Bính Dần - Canh Dần - Ất Dậu - Đinh Sửu

dậu sửu hợp, canh quan lấy sát luận;

16) Lễ bộ Thị lang Đỗ Chửng mệnh:
Mậu Dần - Mậu Ngọ - Quí Tị - Giáp Dần

can thấu nhị quan, không kỵ thương quan;

17) Thanh triều quan sát Sứ Ngô Ngư Xuyên mệnh:
Ất Sửu - Tân Tị - Giáp Ngọ - Đinh Mão

nhìn như chỉ có tân quan một vị, kì thực tị sửu hợp kim, quan nhiều là sát, phản hỉ đinh hỏa thương quan;

18) Nữ mệnh:
Quí Mão - Kỉ Mùi - Nhâm Ngọ - Nhâm Dần

Nguyệt lệnh kỷ mùi một quan tinh, nhật chi ngọ hỏa trung kỷ thổ là quan tinh khác, quan nhiều thành sát, tẩu quý hợi vận thời, hợi mão mùi tam hợp thương cục chế sát, mệnh chủ kinh thương thành phú bà, nắm giữ tiền hơn một ngàn vạn, và cũng không có họa hoạn thương quan gặp quan.

4-Cái gì là khứ quan tồn tài cách đây? Chính nguyệt lệnh là tài, nhưng có quan tinh tiết tài phá cách, lúc này nếu có thực thương khứ mất quan tinh, bảo vệ tài tinh, thì gọi là khứ quan tồn tài.

19) Thí dụ như Cấp Kim Thuần mệnh:
kỷ mão - quý dậu - bính thìn - mậu tuất

nguyệt lệnh dậu kim vi tài, thượng có quý thủy quan tinh phá cách, hỉ năm thời có thực thương khứ quan hộ tài, như vậy không cần quan tinh mà dụng tài, tài vượng tự có thể sinh quan. Cho nên mệnh chủ ở kỷ tị mậu thìn thương quan vận từ Doanh trưởng lên chức đến Thượng tướng quân trường, Đô đốc Nhiệt Hà, tọa trấn một phương.

20) Thêm như Trần Thiệu Khoan mệnh:
kỷ sửu - quý dậu - bính thìn - giáp ngọ

cùng Cấp Kim Thuần giống nhau, đều là khứ quan tồn tài cách, mệnh chủ ở kỷ tị thương quan vận quan lên chức Hải quân Tổng tư lệnh.

kimcuong
03-06-12, 18:27
Đương nhiên, còn có vấn đề thanh cách - bình thường quan cách, cũng không thể không biết. Uyên Hải Tử Bình - chính quan cách nói: "Chính khí quan tinh, phải kỵ hình xung, nhiều thì luận sát, một vị danh chân" . ("Chính khí quan tinh, thiết kị hình trùng, đa tắc luận sát, nhất vị danh chân") có nghĩa là chính quan trừ ra sợ hình xung khắc hợp ở ngoài, còn lấy một vị thì nên, hai vị trở lên lấy sát luận, nếu có chữ thực thương cũng được thanh cách.

21) Tỷ như Minh triều Thượng thư Lâm Hãn mệnh:
giáp dần - mậu thìn - quý dậu - bính thìn

giáp mộc thương quan khứ mất nguyệt can mậu thổ quan tinh, lưu lại thời chi thìn thổ một vị quan tinh làm dụng, thương quan có thể thanh cách mà không phá hư cách, nên mệnh chủ cả đời thuận toại, quan cao nhất phẩm.

22) Thêm như Dân Quốc Tổng lý Hùng Hi Linh mệnh:
canh ngọ - quý mùi - canh thân - đinh hợi

quý thủy thương quan thương sạch thời can đinh hỏa quan tinh, lưu lại niên chi ngọ hỏa một vị quan tinh, như vậy cách cục càng thanh, cho nên mệnh chủ đại quý.

Ngoài ra, chúng ta xem lại vấn đề vị trí tương hỗ thương quan với quan tinh. Tam Mệnh Thông Hội - luận thương quan nói: "Ở năm tháng cần phải đoạt quan vận, ở nhật thời không nên bị thương, vừa thấy bị thương, họa không thể nói." ("Tại niên nguyệt tất yếu bác quan vận, tại nhật thì bất nghi bị thương, nhất kiến bị thương, họa bất khả ngôn.") Kiến giải này - quan tinh ở năm tháng sẽ thương tận, ở nhật thời cũng không có thể bị thương khắc - có đạo lý gì sao? Mới nhìn tựa hồ là kinh nghiệm, không có gì đạo lý, nhưng mà thận trọng ngẫm lại trình bày và phân tích của cổ nhân đối với tài ấn, sách tóm tắt được tất trong đó có đạo lý khác.

Tứ Ngôn Độc Bộ nói: "Trước tài sau ấn, phản thành phúc của nó; trước ấn sau tài, phản thành sự hỗ thẹn của nó " ("Tiên tài hậu ấn, phản thành kỳ phúc; tiên ấn hậu tài, phản thành kỳ nhục"). Có nghĩa là tài cách tài tinh đương lệnh, nếu ở nhật thời vị trí phối chi lấy ấn tinh, gọi "Trước tài sau ấn ", chủ nhân phát phúc dị thường, không có những điều không tốt vì tài phá hư ấn. Mà ấn cách ấn tinh đương, nếu ở nhật thời có tài, tức vi "Trước ấn sau tài ", như vậy sẽ phá hư ấn cách, sinh ra những điều không tốt vì tài phá hư ấn. Nhìn xem, cùng là tài tinh khắc ấn, chỉ dựa vào bất đồng vị trí trước sau trên bát tự mà khiến kết quả cát hung hoàn toàn trái ngược, điều này nói rõ tổ hợp cách cục bát tự quan trọng đến độ nào, cái gọi là “thăng bằng dụng thần” chỉ sợ là nghĩ nát óc cũng không ra một chút trình tự này.

23) Lệ như Nam Tống danh nho, Đại Học sĩ Chân Đức Tú mệnh:
mậu tuất - nhâm tuất - ất hợi - kỷ mão

24) Minh triều Lễ bộ Thượng thư Hạ Bang Mô mệnh:
bính ngọ - mậu tuất - ất hợi - quý mùi

cùng là trước tài sau ấn, nên hai người cùng vi tiến sĩ xuất thân, quan cao danh hiển, lương đống chi thần, không có các loại tai nạn tài phá hư ấn.

Hai nam mệnh khác:
25) mậu tuất ất mão bính thân tân mão;

26) quý hợi ất mão bính thân đinh dậu,

cùng là trước ấn sau tài, vì vậy hai người cùng mù chữ, người trước là thợ sơn nước ốm đau bệnh tật, người sau là lão nông phu khó nhọc, đều là bởi vì tài tinh phá hủy ấn.

Tài ấn là như thế, quan hệ giữa quan tinh cùng thương quan phải chăng cũng là như thế này sao? Nếu như nói thương quan cách mà quan tinh ở năm tháng, thêm thương mà bất tận, thì họa trăm mầm mối, nhưng nếu ở nhật thời, mặc dù thương quan gặp quan mà không hề tai họa, nói như vậy đúng không? Theo lý thuyết ứng đáng như thế, bởi vì năm tháng là trước, là gốc mầm, nhật thời là sau, là hoa quả, quan tinh đóng ở nhật thời biểu thị thành quả cuối cùng hay là thương quan không làm thương tổn quan tinh.

27) Lệ như đại họa gia thời Minh, Lễ bộ Thượng thư Đổng Kỳ Xương mệnh:
kỉ mão - bính dần - ất mão - canh thìn

nguyệt lệnh thương quan, thời can chính quan, mệnh chủ không những không có họa thương quan gặp quan, ngược lại ở tân dậu canh thân vận quý vượt trên mọi người.

28) Nam mệnh:
kỉ tị - bính dần - ất dậu - canh thìn

cùng mệnh Đổng Thượng thư cực kỳ tương tự, khác nhau chỉ là Đổng mệnh quan tinh vô căn mà mệnh này có cường căn, nhưng mệnh chủ này cả đời cũng không có tai nạn bất ngờ thương quan gặp quan, là một giáo sư chung thân bình thường, không có làm quan, lúc tuổi già tẩu vận tân dậu canh thân, chịu đủ hành hạ phong thấp gân cốt, biến đổi thời tiết thì ê buốt đến mức kêu la. Ai nói ất mộc nhật nguyên thương quan "Vận gặp quan sát chuyển vi lương" đây?

29) Có 1 nữ mệnh khác:
giáp ngọ - bính dần - ất tị - canh thìn

cũng là tổ hợp trước thương sau quan, khác nhau là canh kim quan tinh ở tị hữu căn, chỉ là so với nam kỷ tị tạo, vận mệnh nhẹ rất nhiều, mặc dù này mệnh chủ cũng là vài thập niên dạy học, nhưng vận tân dậu canh thân nhân làm vườn trẻ thành công, thành phú bà ngàn vạn. Hơn nữa cả đời không làm quan, không có tai họa bất ngờ, hôn nhân cũng ổn định.

30) Lại còn có nữ mệnh:
ất tị - kỉ sửu - bính tí - quí tị

Nguyệt là thương, thời làm quan, đại vận đoạn đường canh tân nhâm quý, thương quan bất tận, song mệnh chủ cũng không có gặp đủ điều không tốt thương quan gặp quan. Sau tốt nghiệp cao trung, mệnh chủ vợ chồng vẫn làm lá trà buôn bán, đến nay nhà có tồn khoản hơn mười vạn, cuộc sống cũng xem như được trôi chảy. Phu thê cả hai mặc dù đôi lúc cãi nhau, đến nay cũng không có ly dị. Ai nói bính hỏa nhật nguyên thương quan "Như gặp thủy vận gặp thương diệt" đây?

kimcuong
03-06-12, 18:42
Từ mệnh lệ mấy người nói trên có thể thấy, hễ là bát tự trước thương sau quan, mặc kệ quan tinh căn nhẹ căn trọng, cùng không lấy thương quan gặp quan phá cách luận. Nói cách khác, dưới loại tình huống này thương quan là có thể gặp quan. Nhưng là cũng không phải hỉ gặp quan tinh, trái ngược, mệnh cục quan tinh căn nhẹ cách cao, căn trọng cách thấp. Trên thực tế loại này cách cục chính là thương quan khứ quan cách hoặc thương quan đái sát cách, tuế vận khứ tẫn quan tinh thì chính là thương quan khứ quan cách, tuế vận gặp quan sát thì chính là thương quan đái sát cách. Ngoài những điều này ra, cũng không có cái gì thương quan hỉ quan cách.

Xem qua rồi mệnh lệ mấy người quan tinh ở nhật thời, chúng ta lại nhìn bát tự mấy người quan tinh ở năm tháng:

31) Nữ kiệt cuối đời Minh Lưu Thục Anh mệnh:
kỉ mùi - ất hợi - nhâm tí - tân sửu

niên trụ quan tinh gặp nguyệt trụ thương quan trực khắc, thời trụ tân kim bị nhâm thủy hóa tiết, không thể chế thương, thương quan khắc quan mà không thể khắc tận, không là mệnh tốt. Mệnh chủ học thư học kiếm, văn võ song toàn, không nhường đấng mày râu. Bất đắc dĩ vận mệnh không có cứu, thiếu niên tang cha, mới kết hôn tang chồng, khánh kiệt tư gia trợ giúp đội ngũ kháng Thanh, dắt già dẫn trẻ nhiếu năm chạy nạn khắp nơi. Sau trung niên sau chọn chỗ ở giữa núi, hầu hạ mẹ dạy con, chết già nơi ở ẩn.

32) Nam mệnh:
kỉ mùi - ất hợi - nhâm thìn - quí mão

cùng Lưu Thục Anh mệnh khá giống, cũng là năm tháng thương quan gặp quan, chỉ là mệnh này thương quan quá nặng, mệnh chủ tự quý dậu khởi vận ất hợi năm 16 tuổi bị bệnh tâm thần, đến nay vẫn còn gặp người thì đánh, không ai dám gần.

33) Nam mệnh:
ất dậu - tân tị - mậu tuất - đinh tị

Nguyệt lệnh ấn thương cùng thấu, chỉ vì đinh hỏa bị mậu thổ hóa tiết, tị dậu hợp kim, khó có thể cấu thành thương quan phối ấn cách. Năm tháng can thương quan gặp quan, lấy thương quan khứ quan cách luận, tẩu phía đông bắc vận không thể làm quan tinh thương tận, bởi vậy mệnh chủ trước sau vui mừng sinh năm nam tử, nhưng mà lần lượt chết yểu thê thảm. Bởi vì thê tinh hỉ thần không hiện, vợ là một người mù. Chuyện này làm hắn thường xuyên đau đầu muốn bể, đôi lần thiếu chút nữa vào bệnh viện tâm thần . Ai nói thân vượng có thể thương quan gặp quan đây?

34) Nam mệnh:
đinh tị - quí sửu - canh thìn - đinh hợi

Năm thời có hai đinh hỏa quan tinh, vốn lấy thương quan giá sát cách luận, đáng tiếc thời can đinh hỏa bị nhâm thủy tọa hạ trong hợi của nó hợp khứ, chỉ để lại niên can một độc quan, nhưng lại tự ngồi tị hỏa cường căn, khiến thương quan không thể đem thương tận. Cho nên liền thành mệnh nát vụn thương quan gặp quan, họa trăm mầm mối. Mệnh chủ giao du bạn nhỏ nghịch thành thói, tùy tiện làm liều, người gặp người sợ. Từ 13 tuổi canh ngọ năm khởi, nhân theo đạo tặc cướp giật mà vào cục cảnh sát, từ đó về sau đến cục cảnh sát rồi đi như là thân thích. Ai nói kim thủy thương quan hỉ gặp quan đây?

35) Minh triều Hình bộ Thượng thư Vương Sùng Cổ mệnh:
ất hợi - tân tị - mậu thân - canh thân

Nguyệt thấu thương quan, trực khắc niên can quan tinh, cách lấy thương quan khứ quan. 26 tuổi tân sửu năm thương tận quan tinh, cao trung tiến sĩ, nhậm chức Hình bộ chủ sự. 40 tuổi ất mão năm cách thành thương quan giá sát, lên chức Thường châu Binh bị Phó sứ. 49 tuổi giáp tý năm lên chức Hữu thiêm Đô Ngự sử. 60 tuổi ất hợi năm cất nhắc Hình bộ Thượng thư. Sao nói thân nhược sẽ không có thể thương quan gặp quan? Sao nói thổ kim thương quan phải nhất định phải thương tận quan tinh? Sao nói mậu thổ nhật nguyên thương quan "Trụ trung cách úy mộc tới"?

36) Minh triều Lễ bộ Thị lang Lữ Nam mệnh:
kỷ hợi - kỷ tị - đinh mùi - bính ngọ

Năm tháng lưỡng thấu thực thần, xung khắc niên chi hợi thủy độc quan, lấy thương quan khứ quan cách luận. 29 tuổi mậu thìn năm thương quan cao thấu, khứ tận quan tinh, đỗ đầu thiên hạ, cử chức Hàn lâm Tu soạn. 43 tuổi nhâm ngọ năm chính quan lộ ra, thương quan gặp quan, mệnh chủ bị biếm chức làm phán quan Giải Châu. Lúc tuổi già tẩu tý quý hợi vận, cách thành thương quan giá sát, quan lên chức Lễ bộ Thị lang, cuối cùng già chết. Ai nói hỏa thổ thương quan nên thương tận quan tinh?

Có thể thấy, vấn đề thương quan có thể gặp quan hay không, không quan hệ loại hình ngũ hành thương quan, không quan hệ nhật nguyên âm dương, cũng không liên quan nhật nguyên vượng suy, chỉ liên quan cách cục thành bại cùng vị trí của quan tinh. Chỉ có quen thuộc điều kiện thành bại các loại cách cục, và vấn đề trước thương sau quan, mới có thể chính thức suy đoán chuẩn (mà không phải mù sờ chuẩn) kết quả hung cát thương quan gặp quan.