View Full Version : Dụng - Hỷ - Kỵ Thần trong Bát Tự này là gì? (bính dần-nhâm thìn-giáp thìn-giáp tuất)
Cho NL hỏi về Dụng Thần trong Bát Tự sau:
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotutru/0/203030041986/0/bx.jpg
và luôn tiện cho hỏi luôn Hỷ Thần, Kỵ Thần là gì?
NL mới bập bẹ tìm hiểu Bát Tự, trước hết là về phần Cách Cục, Thân Vượng/Nhược, và tìm Dụng Thần. Sẵn quan tâm về Bát Tự trên nên mang lên nhờ mọi người giúp đỡ, trước là để học hỏi và sau thì giải đáp được mối quan tâm :4:.
Theo cái hiểu của NL thì Bát Tự trên Thân Vượng, Tỷ Kiếp nhiều thì lấy Quan Sát làm Dụng Thần, nhưng trong Trụ không có Quan Sát nên lùi lại lấy Thực Thương làm Dụng. Lấy Bính (Thực Thần) làm Dụng.
Còn nếu xét theo điều hầu thì trụ có Thực và Kiêu Thần lộ thì Thực Thần là Dụng Thần, Kiêu Thần là Kỵ Thần (?). Quan Sát (Kim) và Thổ (Tài) là Dụng Thần cứu ứng (?).
NL thắc mắc tí nữa là Trụ có 3 chi Thổ, vậy Thổ có nhiều quá không. Vì nếu Thổ nhiều quá thì làm tổn nội lực của Mộc. Nếu trường hợp đấy xảy ra thì lại phải dụng Mộc.
Và nếu được, nhờ bà con cho vài lời về Bát Tự!
NL cảm ơn nhiều!
Chào NgoaLong, bạn phạm qui định rồi đấy :), vì đây là lá số của người khác? không phải của bạn. Không biết người ta có cho phép bạn gửi bát tự để hỏi không? Tuy thế, thấy bạn có tự giải vài điểm rất hay, nên tôi cũng dựa vào đó mà góp ý cơ bản vậy.
Tứ trụ trên không hẳn khuyết Kim, vì cứ hễ có 1 chút dư khí cũng gọi là có, vậy Tân Kim nằm ở Tuất trụ giờ, lại lộ ở cung Mệnh (Tân Mão), nên có thể dụng Tân Kim Quan (không dụng Sát!). Thể hiện rõ rệt nếu có đối tượng có bát tự là Kim nhiều là rất hợp nhau. Nếu lấy chồng là nhờ chồng. Thử kiểm lại xem.
Không thể dụng Bính, vì có Nhâm kế bên khử mất rồi; lại nữa, Nhâm Thìn cùng trụ chính là Thủy khố, nên Thìn không phải là Thổ mà phải luận là Thủy. Bính Dần là tọa trường sinh, nhưng Dần không vong, Bính bị Kiêu đoạt, cẩn thận tim mạch.
Còn các điều khác, các bạn nên vào luận giúp NgoaLong.
NL cảm ơn chị KimCuong nhiều!
Chào NgoaLong, bạn phạm qui định rồi đấy :), vì đây là lá số của người khác? không phải của bạn. Không biết người ta có cho phép bạn gửi bát tự để hỏi không? Tuy thế, thấy bạn có tự giải vài điểm rất hay, nên tôi cũng dựa vào đó mà góp ý cơ bản vậy.
Lá số này của bà xã, thành ra chị KimCuong và mọi người cứ tự nhiên. Vả lại, chủ nhân lá số cũng tò mò muốn biết Dụng Thần là gì.
Tứ trụ trên không hẳn khuyết Kim, vì cứ hễ có 1 chút dư khí cũng gọi là có, vậy Tân Kim nằm ở Tuất trụ giờ, lại lộ ở cung Mệnh (Tân Mão), nên có thể dụng Tân Kim Quan (không dụng Sát!). Thể hiện rõ rệt nếu có đối tượng có bát tự là Kim nhiều là rất hợp nhau. Nếu lấy chồng là nhờ chồng. Thử kiểm lại xem.
NL cũng có nghĩ tới lấy Tân tàng trong Tuất để dụng, nhưng nghe nói khi xung (Thìn Tuất tương xung) thì không thể lấy làm Dụng Thần (?).
Không thể dụng Bính, vì có Nhâm kế bên khử mất rồi; lại nữa, Nhâm Thìn cùng trụ chính là Thủy khố, nên Thìn không phải là Thổ mà phải luận là Thủy. Bính Dần là tọa trường sinh, nhưng Dần không vong, Bính bị Kiêu đoạt, cẩn thận tim mạch.
NL thấy nói Dụng Thần thì phải có lực, không bị xung khắc. Nhưng thấy Nhâm không đắc lệnh, lại nằm trong Kho thì không có lực lắm. Và sinh vào 18 ngày cuối Tháng Thìn thì Mậu nắm lệnh, thành thử Thủy khá yếu (?). Vì vậy mà NL nghĩ tới Bính Hỏa ...
*** Tim không tốt, từng mổ tim
Theo ý chị KimCuong và cũng theo Tứ Trụ có "Kiêu Thần đoạt Thực", vậy có thể xem Kiêu Thần là Kỵ Thần không và khi ấy có cần phải lấy Thổ (Tài) để khắc chế Kiêu Thần (Nhâm) không? Hay là lấy Kim làm Dụng Thần và Thổ làm Hỷ Thần, Thổ một mặt trợ Kim (Dụng Thần) để khắc Tỷ Kiếp (Thân Vượng), một mặt làm tổn Thân (Mộc) và mặt khác có thể chế ngự Kiêu Thần (?)
Mong được mọi người cho ý kiến!
PS: NL mới bập bẹ Tử Bình thành thử có nhiều điều thắc mắc, mong chị KimCuong và mọi người thông cảm
NL cũng có nghĩ tới lấy Tân tàng trong Tuất để dụng, nhưng nghe nói khi xung (Thìn Tuất tương xung) thì không thể lấy làm Dụng Thần (?).
Các can tàng trong địa chi xung khắc không phải là mất hết dấu tích vĩnh viễn, vì phải xét tùy vào bát tự. Nếu mà sạch cả ngũ hành (không có mặt Canh Tân Thân Dậu) thì lại tính khác. Tứ trụ này có Tân kim trong Tuất, lộ ra ở cung mệnh, nên có thể dụng. Khác biệt ở KIM là không dụng Canh mà dụng Tân được là điều may mắn đấy, vì Canh kim thì phạt Giáp, còn Tân kim thì có thể hợp Bính, làm cho Nhâm không thể khắc Bính mạnh mẽ được.
NL thấy nói Dụng Thần thì phải có lực, không bị xung khắc. Nhưng thấy Nhâm không đắc lệnh, lại nằm trong Kho thì không có lực lắm. Và sinh vào 18 ngày cuối Tháng Thìn thì Mậu nắm lệnh, thành thử Thủy khá yếu (?). Vì vậy mà NL nghĩ tới Bính Hỏa ...
Cái gọi là "kho" hay "mộ" lại cũng tùy thiên can. Nhâm mà thấy Thìn là mộ khố của Nhâm, sao gọi là thủy yếu được? Đây là nhận định Thìn Tuất Sửu Mùi đặc cách, nhất là khi đó là lệnh tháng. Nhâm Thìn ở tứ trụ này rất có lực.
Những điều thắc mắc khác từ từ giải thích sau nhé. Tôi thấy rằng nếu mổ xẻ tứ trụ một cách như có thể dụng được vật này không được thì dụng vật kia...thì rất khó nắm bắt sự việc. Thật tế chúng ta phải theo sát nguyên lý mà xét và bỏ qua cảm nhận chủ quan mới được.
NL cảm ơn chị KimCuong nhiều!
Cũng muốn mang Bát Tự của bản thân lên hỏi luôn nhưng hơi ngại (ngại vì hỏi nhiều quá :4:). Để khi nào có dịp mang ra hỏi và hỏi cho đáng cái ... hihii
À, cái này NL tò mò thôi chứ cũng không để làm gì. NL thấy (trong phim) người ta so sánh Bát Tự giữa 2 người (chẳng hạn như vợ chồng) xem hợp khắc phá trợ v.v... thì không biết nguyên tắc là xét như thế nào vậy chị KimCuong?
Đã có vợ có chồng mà xem lại "nguyên tắc" thì phải có công lực rõ ràng nhé :)
Như NgoaLong coi phim Tầu và biết họ xét hình xung khắc hại thì cũng tạm đúng đó, vì thời nay không còn như thời xưa, quan niệm về hôn nhân, đạo đức đã thay đổi rất nhiều.
Nhưng nói chung, khi muốn kết hôn, chính yếu là khi nhà giai người ta xem Nữ mệnh, còn nhà gái cũng không thua kém gì, phải nhờ thầy xem bát tự Nam Mệnh :)
Nữ thì cần nhị Đức và chính Ấn tốt là cơ bản, vì những tiêu chí này kể như là Phúc tinh có thể giải cứu toàn bộ các hung họa. Còn nam thì cần Quan tinh tốt, do quan niệm Quan là sự đối đầu với xã hội để nuôi sống gia đình; Quan cũng là cung con cái của nam.
Đấy là nói chung, còn thì đi vào chi tiết so sánh 2 bát tự mà kĩ lưỡng thì mệt hơn... Nào là hợp Quan không hợp Sát, Tí Ngọ Mão Dậu là dâm loạn, không được tham Tài phá Ấn...v.v...
Theo tôi nhận thấy rất nhiều cặp vợ chồng chung sống đến khi tổ chức cả Lễ Bạc, Lễ Vàng là bát tự 2 người đều có thiên hợp địa hợp, hoặc thiên hợp trụ năm (thiên can hợp như Giáp Kỉ, Ất Canh...), dụng thần bổ cứu cho nhau, hình xung khắc hại không vong không ở cung phu thê và cung tử.
Nhưng đấy là bề ngoài cuộc sống nhé, không nói đến tình cảm. Phải là thân tình hay trong gia đình mới biết được rõ hơn.
Cái gọi là "kho" hay "mộ" lại cũng tùy thiên can. Nhâm mà thấy Thìn là mộ khố của Nhâm, sao gọi là thủy yếu được? Đây là nhận định Thìn Tuất Sửu Mùi đặc cách, nhất là khi đó là lệnh tháng. Nhâm Thìn ở tứ trụ này rất có lực.
sonthuy xin hỏi chị Kimcuong
Thiên Can nhập mộ khố còn Địa Chi có tính nhập mộ khố không ? như Tứ trụ bạn NL đưa lên thì Dần và Tuất có nhập vào mộ khố Thìn không ? phần này hình như chị chưa nói tới.
Xin cảm ơn
ST
Địa chi sao lại nhập mộ ở địa chi khác? Chỉ có thiên can nhập mộ, như Giáp mộ ở Mùi, Ất mộ ở Tuất. Cái thuyết Mộ Kho này cũng phức tạp, mà chỉ tính Mộ chính ở ngũ hành, can dương thì vượng hơn can âm. Như Giáp Ất là Mộc, khi gặp Mùi là gặp Mộ hay gọi là Kho, vì ý nghĩa của Kho tích cực hơn chữ Mộ (thường làm cho nhiều người nghĩ là mồ chôn).
Chính mộ tức là như Nhâm Thìn (thủy khố), Bính Tuất (hỏa khố), còn Canh thì không tọa Sửu, Giáp không tọa Mùi; nên ngược lại Tân Sửu là Kim khố, Ất Mùi là Mộc khố. Khi những trụ như thế xuất hiện thì xét ngũ hành của chúng là vượng.
Chị KimCuong ơi, bà xã NL nhờ chị cho vài lời sơ qua các Đại Vận sau này thế nào.
Bà xã nhờ chuyển lời cảm ơn chị KimCuong!
NgoaLong cho biết hạn mổ tim vào thời gian nào, có phải khoảng sau tháng 8.2008? Nếu ngại thì pm cũng được.
NgoaLong cho biết hạn mổ tim vào thời gian nào, có phải khoảng sau tháng 8.2008? Nếu ngại thì pm cũng được.
Tháng 1 Âm Lịch (tháng Dần) năm Kỷ Sửu (2009) đấy chị KimCuong!
Tôi muốn xác định rõ tháng nhập hạn của lưu niên. Như vậy hạn 29 tuổi sắp đến nói chung là tốt nhất và khá đều đặn, tuy nhiên, sẽ có những chuyển biến giữa 2 vận và giữa các năm đều cần chú ý. Bạn hãy thử kiểm tra lại với Tử Vi có đúng như thế không. Đại vận 39, 49 không tốt bằng. Nói về vận hạn, thường ta nên cẩn thận những "giao điểm" của hạn và sự đều đặn của các lưu niên. Cho dù là dưới trung bình hoặc ta gọi là "hung vận", nhưng nếu các can chi không xung đột nhau hoặc thay đổi lên xuống thất thường thì phúc và lộc vẫn thấy. Vì bạn biết xem Tử Bình nên tôi nói thế để bạn tự kiểm lại các can chi trong đại vận.
gửi bởi chị KC
Chính mộ tức là như Nhâm Thìn (thủy khố), Bính Tuất (hỏa khố), còn Canh thì không tọa Sửu, Giáp không tọa Mùi; nên ngược lại Tân Sửu là Kim khố, Ất Mùi là Mộc khố. Khi những trụ như thế xuất hiện thì xét ngũ hành của chúng là vượng.
vậy thì Canh kim lúc này tọa Thìn, giáp tọa ở Tuất phải phải không chị KC đoan này e thấy thật bối rối quá. vì chúng e mới nhập môn thì chủ yếu căn cứ vào bảng trường sinh thôi.
Em xin cảm ơn chị nhiều.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.