View Full Version : Khí Tượng trong bát tự
Khí Tượng trong bát tự
T/g: Thái Tích Quỳnh
Luận mệnh theo bát tự chỗ hiểm rốt cuộc là ở nơi nào? Nghiên cứu yếu điểm luận mệnh theo bát tự, đối với phê đoán bát tự ở trong tay khẳng định có đủ ý nghĩa chỉ đạo hết sức trọng yếu. Tôi muốn thời gian nghiên cứu bát tự càng lâu dài thì càng là hi vọng bản thân có thể mau chóng mà giải quyết vấn đề này. Bản thân đã nghiên cứu lâu dài tổng kết thành công việc tra cứu cùng giảng dạy thất bại, tôi phát hiện bát tự luận mệnh vật mấu chốt nhất đó chính là Khí Tượng."Khí" là biến động không ngừng, dẫn đến khí tượng hết sức khó có thể mà nắm được chắc chắn. Mạch "Khí" ở trong bát tự làm sao mà nắm chắc? "Tượng" lại đang ở đâu? Chỗ này là tôi muốn cùng với mọi người tham thảo vấn đề chủ yếu dưới đây.
VD 1, Khôn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Quý Hợi, Đinh Tị
Tạo này là từ một người bạn chuyển đến cho tôi xem, lại không có luận phương pháp xem ngũ hành lưu thông cân bằng mà là dùng theo phép xem cách cục Tử Bình, đều rất dễ dàng bị xem thành bát tự phú quý. Mà sự thực mệnh chủ ở trên vừa là không giàu mà cũng không có quý, chỉ là người bình thường mà thôi. Làm nhiều lần sau đó, tôi nghiên cứu theo khí tượng của bát tự, tôi mới thấy đây là một ví dụ hết sức hay.
Tạo này từ trên trụ năm Chính Quan sinh trụ tháng Chính Ấn, khí ngũ hành trực tiếp chảy hướng về nhật chủ. Nhưng Quý thủy là khá vượng, khí này còn không có dừng lại, bởi vì khí vượng thì giống như dòng nước chảy từ trên cao, chỉ cần không có cản trở, thì nhất định nó sẽ còn lưu hành. Thủy chảy hướng về mộc, mộc ở tháng Thân là không vượng, Giáp mộc ở trong Hợi phía trước mới là Quan Ấn tương sinh chỗ điểm dừng chân của lưu khí. Nhưng mà trụ giờ Đinh Tị xung, Giáp mộc trong Hợi sinh khí lập tức bị xung tán, Giáp mộc sinh khí bị xung, thiên can Quý thủy cũng không có cách nào dừng lại, sinh khí liền không thể tích tụ. Bát tự là phong thủy Tiên thiên của con người, nghiên cứu phong thủy đứng đầu là Tàng phong tụ khí. Chỗ không thể tụ khí không phải là chỗ tốt, bát tự không thể tụ khí cũng khó mà nói là bát tự phú quý. Ngũ hành ở trong ví dụ này, chảy theo hướng Giáp mộc ở trong Hợi là "Khí", Tị Hợi xung là "Tượng", hợp lại chính là Khí Tượng của bát tự bị phải phá hư, tôi nghĩ chỉ cần nắm chắc Khí và Tượng này thì không khó giải thích thứ tầng của bát tự này. Tôi thường sử dụng hỉ dụng phép luận lục thân trong 《 Cùng Thông bảo giám 》, Giáp mộc ở trong Hợi đang là cung chồng của mệnh chủ. Căn cứ nhiều bạn trả lời, chồng của người này cũng rất là bình thường. Sử dụng lý luận trong《 Tam Mệnh thông hội 》: "Xung hình khí tán, là người phế tật" . Phu tinh Giáp mộc ở đây chỉ là gặp xung tán mà không thấy hình thương, đoán chồng là người bình thường, nhưng không có phế tật, là so sánh khá hợp lý.
Rốt cuộc khí tượng ngũ hành ở trong bát tự là như thế nào? Trước tiên tôi nói lý giải một chút khái niệm về "Ngũ hành". Cổ nhân lấy vạn vật trong tự nhiên mà chia ra thành 5 loại "Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ", 5 loại vật chất là vận động và biến hóa. Chữ "Hành" này ở trong ngũ hành, Hành là đi lại, hai chữ ngũ hành không chỉ khái quát vạn vật trong tự nhiên là do 5 loại vật chất tổ hợp mà thành, đồng thời cũng ban hành vạn vật trong tự nhiên là luôn vận động biến hóa. Bởi vì ngũ hành là vật vận động biến hóa, cho nên dùng "Khí" để so sánh càng dễ dàng cho mọi người dễ lý giải và tiếp thu. Đây chính là chỗ tôi lý giải khái niệm về ngũ hành .
Tiên hiền cho rằng, nhìn thấy được hoặc là sờ được là Chất, ngoại trừ lấy Chất thấy được hay sờ được, còn có Khí nhìn không thấy được hoặc là sờ không được. Nói chung nghiên cứu bắt đầu từ cái nhìn thấy được, thông qua nhìn thấy được Thể Chất đi tham cứu khí cơ những thứ đó hoặc là khống chế thể chất biến hóa. Là được chỗ hiểm của luận mệnh. Dịch viết: Thành tượng ở trời, thành hình ở đất, ngược lại khí tượng ngũ hành thông qua bát tự, tình huống thực chất xuất hiện trong nhân mệnh là cũng có thể đo lường được.
Rõ ràng thực tế là xuân về hoa nở, thu vàng là hiện tượng tự nhiên, xoay vòng bốn mùa xuân hạ thu đông, khí tượng biến hóa đây là tự nhiên rất rõ ràng. Con người là một bộ phận tự nhiên, bát tự con người cũng tồn tại khí tượng. Tôi cho rằng chỗ khí tượng này cùng hướng đi của vượng thần rất là tương quan. Bát tự luận mệnh có rất nhiều phương pháp phân loại, ví dụ như phép khí số, từ nhật can hỉ kỵ xuất phát ở 12 tháng, trước tiên phải đến hỉ kỵ bản thân của nhật nguyên, lại giam chặt ở nguyệt lệnh, luận biến hóa 【 Bản chính của phép Khí Số là 《 Cùng Thông bảo giám 》 hoặc là (Lan Giang võng)】 chỉ có luận biến hóa, mới có thể tìm đúng chuẩn chỗ ở của Khí Tượng.
Lại như phân loại Cách cục luận mệnh, cũng là chỉ thẳng chỗ ở nguyệt lệnh vượng khí. Phép cách cục xuất phát từ vượng khí, mới luận thành cách biến cách, thực tế cũng là tìm ở khí cơ, ở trên một điểm này, phép cách cục có tính ưu việt, tính ưu việt của nó là ở xuất phát từ vượng khí tìm ra khí tượng ngũ hành so với phương pháp khác rút ngắn một bước khoảng cách. Nhưng cũng có tính giới hạn, thiếu mức độ chính xác, vì rất dễ dàng bỏ qua bản thể khí tượng của nhật nguyên.
VD 2, Càn tạo: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão
Đây là một ví dụ chọn lựa từ tiết thứ 2 chương 33 Luận Tài trong《 Tử Bình chân thuyên 》. Nguyên văn chỉ rõ đây là mệnh Cát Tham Chính. 【 tức là người tham gia chính trị】, còn gọi tắt là "Tham Chính" . Là thời kỳ Đường Tống là một chức quan lớn nhất trong chính trường, và cùng với Bình Chương sự, Xu Mật sứ, Khuông Mật phó sứ hợp lại gọi là "Tể chấp" . Đây là chỗ phân cấp quan từ thời xưa, mệnh chủ hẳn phải là cấp bậc làm quan rất cao. Tác phẩm《 Tử Bình chân thuyên 》 cho rằng tạo này là lấy Quan để bảo vệ Tài, Tài cách thành, cho nên quý. Chỗ này nhìn giống như là thuận lý thành chương, nhưng tác giả cảm giác còn một áo diệu khác. Trước tiên, đem đo lường Tý và Ngọ ở trong cục, thủy thấu can, hỏa không thấu, thủy được Thân phát nguyên, Ngọ lâm Mão phá (thực chất Mão phá Ngọ không phải là Mão mộc khắc thổ, mà là mộc nhiều hỏa diệt), hỏa diệt mà còn thổ. Tạo này vượng khí là ở trên Tý thủy, khí thế Tý xung Ngọ cũng là ở chỗ khử hỏa tồn thổ. Đây là chỉ luận một ý tưởng lưu hành vượng khí. Một ý tưởng càng lớn hơn là, Thân Tý tam hợp cục chỉ thiếu một chữ "Thìn", xác định đặc tính ngũ hành mà nói, sao tứ chính đều có xu hướng cố gắng hoàn thành tam hợp cục. Trong nguyên cục có Thân có Tý, tổng hợp nhìn từ ý tượng hoàn thành Thân Tý Thìn tam hợp cục, nhật nguyên Mậu thổ liền đảm nhận tác dụng của "Thìn" thổ thủy khố. Ở Tý xung Ngọ, Mão phá Ngọ, dưới tác dụng khử hỏa tồn thổ, nhật nguyên Mậu thổ có thể đảm nhận trong tam hợp cục nguyên một chữ --- Thìn, là trọng yếu mới không mất cấp bậc là "Tham chính". Nếu xem lấy Chính Quan bảo vệ Tài, tất cần thân vượng Tài Quan vượng, như vậy, Tý hình Mão, Quan có tổn hại, Tý xung Ngọ, thân chủ Mậu cũng có tổn hại, sao tránh được thân nhược Quan tinh nhược? Nếu cầm Quan tinh Ất mộc của tạo này trở thành hiện tượng thủ đại quý, như vậy, giữa địa chi xung hình khí tán thì làm sao mà yên ổn? Bát tự này có xung có hình có phá, lấy thủy cục là Khí, lấy Mậu là Thìn xem là Tượng, toàn bộ khí tượng bát tự hoàn toàn rơi ở trên nhật nguyên Mậu thổ. Đây đúng như chỗ《 Địa Chi phú 》nói "Rơi ở đất nào mà thành tượng, ở chỗ nào mà thăng thiên" .
Có thể có người sẽ hỏi, lúc này Ất tọa Mão lại còn ở trên trụ giờ, không phải là nói Ất mộc thành mộc cường tráng à, mộc cường tráng sao không khắc thương Mậu thổ? Nhưng mà độc giả cũng phải cần chú ý đến, Tý Mão tương hình, đồng thời Mão phá Ngọ, Mão cũng phải bị chỗ tổn thương, Ất mộc ở đây chỉ là tương đương với thảm cỏ hoặc là thảm thực vật khác. Hoàn cảnh cấu tạo thảm cỏ hoặc là một thảm thực vật nhỏ để giữ gìn thủy thổ cũng là hết sức yêu cầu. Nghiên cứu tạo này, khiến cho tôi lại nghĩ đến một bát tự của một vị vĩ nhân.
VD 3, Càn tạo: Giáp Thìn, Nhâm Thân, Mậu Tý, Nhâm Tý
Đây là bát tự của Đặng vĩ nhân, Mậu thổ ở trong bát tự, thì giống như một đống thổ dày tọa ở núi cao, hình tượng là một trụ cột vững vàng. Nguyên cục một khối thủy vượng, trời sinh Mậu thổ là dựa vào ở thủy. Rất mừng là Mậu thổ sinh ở tháng Thân, Mậu và Nhâm thủy một lúc khởi được trường sinh. Lúc này liền có thể dùng, thủy có sâu đậm, núi thì có to cao, thủy có cuồn cuộn to lớn, thổ thì có nhiều bề dày, nói chung có thể chỉ định là chảy cuồn cuộn. Tư tưởng Mậu thổ cuối cùng là đại biểu ý nguyện dân chúng khắp nơi. Cho nên mệnh chủ là người vĩ đại, chính là trời sinh ông ấy có đủ một tổ hợp ưu tú. Trong bát tự khí từ thổ chảy hướng về kim, kim lại chảy hướng về thủy, thủy sinh mộc cũng có thể là trôi mộc, nhưng Mậu thổ nhật nguyên lại có thủy kiên cố lấy tác dụng bồi mộc, cùng với trong ví dụ ở trước Mậu thổ là tham sinh vong khắc không thể đánh đồng giống như nhau. Tạo này Giáp mộc không vượng cũng chỉ xem như là đám cỏ thực vật, giữ gìn cho thủy thổ tốt đẹp. Mậu thổ liền có như một người thủ ở cửa quan, là khí tượng vạn người không thể sánh bằng. Bởi vì tác dụng nhật nguyên Mậu thổ, khiến cho chân khí Giáp mộc tụ mà không tán, nó mới là dấu hiệu đại quý.
Ngũ hành sinh khắc là đại pháp căn bản của ngũ hành thuật số, nhà mệnh học cận đại đề xuất khinh cách cục mà trọng sinh khắc, tác giả cho rằng đây là một tiến bộ hết sức to lớn. Dường như khó mà phát hiện và lý giải chính là nguyên nhân sản sinh ở bên trong những chỗ khí tượng này. Đây là trọng điểm bát tự luận mệnh cũng là chỗ vướng mắc, nhưng sở dĩ bát tự luận mệnh là một môn học thâm áo, chính là bởi vì chỗ khó mà tìm ra được mấu chốt của Khí.
Lại nói ngũ hành sinh khắc là tuần hoàn, rất dễ dàng khiến cho mọi người sờ không được đầu mối. Ở trước kia tác giả đã đề cập tới "Ngũ hành sinh khắc vốn là bắt đầu từ vượng thần" . Nắm chắc vượng thần, lại xác minh mức độ vượng suy mỗi một can chi ở trong nguyên cục bát tự, ngũ hành sinh khắc thì không phải là chuyệt rất khó. Ở chỗ tôi nói tiếp xúc đến ngũ hành thuật số mà xem, không có ly khai khỏi phán đoán vượng suy. Bát tự luận mệnh cũng như vậy, chỉ có hiểu rõ can chi vượng suy trong bát tự, mới có thể có hi vọng nắm chắc sinh khắc trong bát tự, nắm chắc con đường can chi sinh khắc mới có hi vọng nắm chắc khí tượng ngũ hành hoặc là huyền cơ trong bát tự. Nếu là thu lại hoặc là đi con đường tắt, phép cách cục tử bình cũng không phải là mất một con đường tắt tốt. Bởi vì nó là mục tiêu thứ nhất là lúc này nhìn thẳng vào vượng thần nguyệt lệnh, cho nên nhất định có một tính chuẩn xác.
Người trong nghề đều có thể lĩnh hội, trên xã hội hiện đại người xin cầu trắc đặc biệt là người ngoài nghề đối với thầy đoán mệnh đều yêu cầu đặc biệt cao, nếu như bạn không có một chút chỗ vượt trội để nhìn ra, họ sẽ có ý bất mãn. Nếu muốn nắm chắc khí tượng lại dường như là khó khăn, phân loại suy đoán tương đối đơn giản hơn nhiều. Quan điểm của tôi là trước tiên học tập phân loại: như phép Khí Thế, phép Khí Số, phép Cách Cục. Sau đó lại tiếp tục đi nghiên cứu Khí Tượng của bát tự.
VD 4, Càn tạo: Quý Hợi, Canh Thân, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ
Người này sinh ở giờ Ngọ, ngày 14, tháng 7 năm 1923, trong thời kỳ niên đại 1980, thường người bên ngoài xếp anh em phú quý làm tư bản quang vinh. Lúc đó, căn bản là tôi còn là người mới nhập môn, họ nhờ tôi xem bát tự này, tôi lại không có nhìn ra ca ca của anh ta rất có quý khí, kết quả anh ta một mực cho rằng bát tự toán mệnh là không chuẩn, đến sau này tôi cầm tạo này đến cho Bành sư phụ xem, lão sư nói bát tự này phù hợp "tháng sinh chính quý, anh em vị liệt triều ban", anh em tất quý, nhưng bản thân anh ta là người tầm thường. Nên sau đó tôi nói với anh ta lão sư dốc lòng đoán cho, hắn mới tương đối là tin tưởng bát tự luận mệnh. Thực tế ca ca mệnh chủ đã từng là nhân viên quan trọng trong Chính phủ Đài Loan, hiện tại nghĩ việc định cư ở nước Mỹ. Bản thân mệnh chủ lại thích thơ ca, suốt đời làm nông, năm 2006 mất.
Từ trong bát tự đoán anh em của ông ta là đại quý, ngoại trừ hoàn toàn lồng vào khẩu quyết, thì cuối cùng tôi không thể lý giải. Đối với bản thân ông ta, phép xem của tôi là, tạo này kim nắm lệnh, vượng khí chảy hướng về thủy, trụ năm Quý Hợi, thủy không nhược, có thể sinh Giáp mộc ở trong Hợi, tổ hợp địa chi Hợi Thân Ngọ, Giáp mộc có tổn hại, nhưng cũng không phải là bị thương không còn một mảnh, hướng đến Giáp mộc này dòng sinh khí là tán loạn hoặc là di động, chỗ Tiên thiên phong thủy của anh ta là không thể tàng phong tụ khí, thứ tầng của mệnh chủ thì đương nhiên khó mà khởi sắc. Ở đây cùng với ở VD 1 Tị Hợi xung cũng có chỗ phân biệt. Người này tổ thượng là đại địa chủ, tương đối giàu có. Đến một đời người trên tay anh ta ở lại Đại lục đều là rất tầm thường. Nhưng mà, thời thượng Nhâm Ngọ, Nhâm có thể hợp khởi Đinh hỏa, khí tượng ngũ hành là Đinh Nhâm hợp lại cứu Giáp mộc, tình huống thực hiện là lão đến vì ảnh hưởng chính sách thay đổi và địa vị ca ca của ông ta, qua thời kỳ này thì có khá hơn.
Xem từ tạo này, khí tượng bát tự xác thực là rất khó nắm chắc chắn, nhưng tôi cho rằng đây cũng là bình thường, bởi vì mệnh lý sẽ không phải là môn học đơn giản như vậy. Thứ nữa là tôi cho rằng khí tượng cũng không nhất định chỉ ở một chỗ, khả năng tồn tại nhiều loại khí cơ. Tìm ra khí cơ bát tự là tôi luôn luôn gắng sức nghiên cứu một phương hướng. Nay đưa ra đoạn văn này mục đích cũng là ở thả con tép bắt con tôm. Mong rằng có chút lĩnh hội các vị cao thủ vui lòng chỉ bảo.
Chào a.Lesol,
Khí trong bát tự, hiện tại em đang dùng phi tinh theo 3 nguyên 9 vận áp vào bát tự.
ở VD 4, Càn tạo: Quý Hợi, Canh Thân, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ(sinh vào vận 3 và theo aitinh:Ngũ quỷ4,Diên niên6,Sinh khí8,Sinh khí8)
=>theo khí mệnh năm 1923 của người này năm/tháng/ngày/giờ điều tốt
vào thời kỳ niên đại 1980-Đại vận: Giáp Dần, tiểu vận : Giáp Thân (vào vận 6: 58tuổi và theo thiên khí:Phục vị5)
=>theo vận khí năm 1980 được cặp 75(Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng vượng).
vào thời kỳ niên đại 2006-Đại vận: Tân hợi (vào vận 8: 84tuổi và theo thiên khí:Ngũ quỷ4)
=>theo vận khí năm 2006 được cặp 54-Ngũ quỷ(ly tổ).
cũng bát tự trên nhưng chuyển sang giờ thân tức: Quý Hợi-Canh Thân-Canh Ngọ-Giáp Thân(sinh vào vận 3 và theo aitinh:Diên niên6,Ngũ quỷ4,Diên niên6,Diên niên6)
=>theo khí mệnh năm 1923 của người này năm/tháng/ngày/giờ điều tốt
vào thời kỳ niên đại 1980-Đại vận: Giáp Dần, tiểu vận : Bính Tuất (vào vận 6: 58tuổi và theo thiên khí:Phục vị5)
=>theo vận khí năm 1980 được cặp 95(Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài).
vào thời kỳ niên đại 2006-Đại vận: Tân hợi (vào vận 8: 84tuổi và theo thiên khí:Ngũ quỷ4)
=>theo vận khí năm 2006 được cặp 14-sinh khí(Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ).
Bên trên chỉ theo xét theo khí(chưa luận đến mệnh lý này ntn). Vì đang trong quá trình kiểm nghiệm xem thực tế với những bát tự khác trong đời thừơng nên không tránh khỏi những sai xót. Đúng như câu không ai giàu 3 họ và không ai khó 3 đời. Tiên thiên là không gian, hậu thiên là thời gian luôn luôn thay đổi theo 3 nguyên 9 vận.
Ngoài ra mệnh lý liên quan rất nhiều như tổ tiên,môi trường,giáo dục,nơi ở, tính cách,...ảnh hưởng và tác động đến con người.
Bên trên chỉ theo xét theo khí(chưa luận đến mệnh lý này ntn). Vì đang trong quá trình kiểm nghiệm xem thực tế với những bát tự khác trong đời thừơng nên không tránh khỏi những sai xót. Đúng như câu không ai giàu 3 họ và không ai khó 3 đời. Tiên thiên là không gian, hậu thiên là thời gian luôn luôn thay đổi theo 3 nguyên 9 vận.
Ngoài ra mệnh lý liên quan rất nhiều như tổ tiên,môi trường,giáo dục,nơi ở, tính cách,...ảnh hưởng và tác động đến con người.
Chào bạn, việc tính tam nguyên cửu vận thì tất cả mọi sinh vật trên trái đất này đều phải tuân theo. Đối với con người cũng không ra ngoại lệ. Tuy nhiên, theo tôi bát tự con người mặc dù cũng theo thời gian hậu thiên mà biến đổi, nhưng tiên thiên khó mà đổi dời. Cũng có người chuyển từ vận này sang vận khác thì làm ăn nên, nhưng cũng có người thì suy sụp.
Trên thực tế đã chứng minh điều này rất rõ ràng, theo tôi hiểu căn cứ hệ thống văn hóa Đông phương, giai đoạn thời kỳ từ năm 2004 đến năm 2023, là trạng thái ở quẻ Cấn làm tác dụng chủ đạo. Tức là ở trạng thái của vận thứ 8. Tôi chưa nghĩ đến việc áp nguyên vận vào bát tự, đây là lối tư duy của bạn, còn tôi thì luận theo cách khác. Tài liệu ở trên là của T/g Thái Tích Quỳnh, ông ấy cũng chỉ tham khảo từ thầy của mình là Bành Khang Dân tiên sinh, tài liệu chỉ là một phương pháp học tập để khiến cho chúng ta có một lối tư duy riêng, chứ không áp đặt cho ai cả. Khi vận dụng phải phù hợp với thực tế, nếu không thì cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Mỗi người có mỗi tư duy riêng, cách luận của bạn cũng vậy, cũng là một lối tư duy.
Cho nên theo tôi, bất luận là mệnh thư nào, khi nghiên cứu bắt buộc phải phù hợp với thực tế. Có vậy, thì hiệu quả mới cao.
Còn phần dưới cùng, ý của bạn tôi hoàn toàn thống nhất, không có ý kiến gì.
Càng đi xâu vào Tử Bình, Gemini càng nhận ra mấu chốt luận mệnh đều nằm ở chổ " nắm bắt được khí thế ngũ hành trong tứ trụ, định được vượng suy, tiếp đến là xem tượng , biến thông từ lý thuyết vào thực tế khó nhất là Đại vận/ Lưu niên ứng kì".
Càng đi xâu vào Tử Bình, Gemini càng nhận ra mấu chốt luận mệnh đều nằm ở chổ " nắm bắt được khí thế ngũ hành trong tứ trụ, định được vượng suy, tiếp đến là xem tượng , biến thông từ lý thuyết vào thực tế khó nhất là Đại vận/ Lưu niên ứng kì".
Theo Gemini thì "Khí thế" là gì? Nếu tứ trụ khí thế không rõ ràng thì phải làm sao để xác định vượng suy?
thưa anh Le Soi, em xin mượn câu nầy để làm vì dụ :
Môn Tử Bình có 1 câu quan trọng mà ai cũng thuộc lòng khi bắt đầu luận giải tứ trụ:
"Dụng thần chuyên tầm nguyệt lệnh, dĩ tứ trụ phối chi, tất hữu thành bại."
Có nghĩa là tìm dụng thần trong chi tháng là điều kiện thứ nhất, sau đó xem xét quan hệ của ngũ hành giữa các can chi còn lại, cách cục của tứ trụ từ đó mới biết là thành hay bại.
Thành tức là thành công, đạt được cách, còn gọi là nhập cách.
Bại là thất bại; cách cục của tứ trụ bị phá.
Giữa "Thành" và "Bại" còn xét được "Kị" và "Cứu Ứng".
Kị tức là cách cục không nên gặp, mức độ bị phá cách nhẹ hơn "bại".
Cứu ứng là khi gặp phá cách lại được giải thoát.
Lưu ý rằng đây chỉ là phần xét Cách Cục theo tứ trụ, mà rất hiếm khi nói rõ định đại vận ảnh hưởng như thế nào đến Cách Cục, vấn đề này có cần xét song song với sự thành bại của Cách Cục hay không. Các mệnh lý gia thời trước chỉ xét Cách Cục, sau đó mới luận đại vận nào sẽ tốt, đại vận nào sẽ xấu.
là khí thế trước hết xem ở chỗ Nguyệt Lệnh đề cương, như nhật chủ thấu ở chi tháng được sinh/ được trợ/ là được thời được thế. khí thế rõ là hùng mạnh đủ sức địch tài/ quan hoặc tiết tú bởi Thực Thương . Đây là tiền đề để nắm bắt mệnh, nhưng phải biết biến thông . không phải được căn gốc vững chắc ở nguyệt lệnh đã vội xem là khí thế mạnh mẽ mà địa chi nên tĩnh, nếu được căn gốc mà vượng thịnh là bị xung phá thì hỏi sao gọi là tốt đẹp.....lúc đó Tài/ Quan còn là cái ta dùng hay sao?.
Được Lộc Vượng vẫn nhược/ thất lệnh vẫn vượng không phải là ít. Nắm nõ khí thế và phải xem khí thế đó có nguy cơ bị mất. bị cướp, bị hóa mất sinh cho kị thần hay không.( nắm rõ quan hệ sinh khắc gần xa, địa chi- hình, xung, hội họp) không thể khinh bạc.
Mà yếu tố mùa sinh là tối quan trọng vậy.
Dụng thần/ Hỷ/Kị thần cũng từ đó mà xác định được chuẩn xác.
Khi khí thế không rõ ràng là không phân định được thịnh vương/ suy thoái trong mệnh, thì yếu tố Mệnh cung, Thân cung, Thai Nguyên, cùng "ngũ hành nạp âm" từng trụ là mấu chốt cuối cùng có thế giúp nắm bắt rõ ràng hơn.....tất cả những yếu tố trên là tương đối vì lý thuyết mệnh lý biến đổi theo thời gian từ thời Phục Hy, Chu Công, rồi Quỉ Cốc Tử, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn không ngừng tinh tiến chỉnh chu....nhưng chân lý cốt lõi vẫn ở khí thế ngũ hành, tứ trụ là một mật mã phong thủy thu nhỏ của mỗi người....mà là phong thủy thì có điểm khởi phát điểm dừng, tụ hội kiết hung ,và sẽ có suy nhưng có thể cái biến.
Ngoài ra còn môt phần quan trọng nữa là thu thập thông tin trọng yếu ( lục thân, tổ nghiệp, tướng mạo, các sự kiện trong đời) thì khi phân vân có thể nắm dc căn cơ.
Em cạn ý rồi anh LeSoi à, có gì thiếu sót, sai xin anh chỉ dẫn ạ.
Giữa "Thành" và "Bại" còn xét được "Kị" và "Cứu Ứng".
Kị tức là cách cục không nên gặp, mức độ bị phá cách nhẹ hơn "bại".
Cứu ứng là khi gặp phá cách lại được giải thoát.
Lưu ý rằng đây chỉ là phần xét Cách Cục theo tứ trụ, mà rất hiếm khi nói rõ định đại vận ảnh hưởng như thế nào đến Cách Cục, vấn đề này có cần xét song song với sự thành bại của Cách Cục hay không. Các mệnh lý gia thời trước chỉ xét Cách Cục, sau đó mới luận đại vận nào sẽ tốt, đại vận nào sẽ xấu.
Nếu nói như trên, vậy theo bạn mệnh dưới đây bạn xét như thế nào?
Thiên Ấn (Kiêu)
Sát
Nhật nguyên
Kiếp
Quý Mão
Tân Dậu
Ất Mão
Giáp Thân
Ất
Tân
Ất
Canh,Mậu,Nhâm
Tỉ
Sát
Tỉ
Quan,Tài,Ấn
Lộc
Tuyệt
Lộc
Thai
thưa anh Le Soi
Quí Mão/ Kim Bạch Kim
Tân Dậu/ Thạch Lựu Mộc
Ất Mão/Đại khe thủy
Giáp Thân/Tuyền Trung Thủy.
(ngũ hành cực số : Mộc :4+1=5, Hỏa :0, Thổ :1, Kim :3+1=4, Thủy :2+2=4
Ất sinh tháng Dậu thiên can thấu Tân, là thất sát cách.
Mà Tân tọa lộc ở Dậu cũng là Nguyệt lệnh, nhận ở trụ giờ Thân. Kim là hành vượng nhất, Tâm kim nắm lệnh. Nhìn trong tứ trụ chỉ 2 bề Kim,Mộc. Ất tuy thất lệnh nhưng tọa lộc trụ ngày, trụ năm, có sinh từ Ấn, có trợ từ Kiếp cũng là lực hùng hậu. Đáng ra thì Thân vượng, Sát(kim) vượng hơn thì dùng hỏa công- dụng thần là Thực/ Thương một mặt chế sát ,một mặt là điều hậu cho tứ trụ khi khí thu liễm hàng lạnh nhưng lại khuyết hẳn thực/ thương trong trụ, và công Sát thì có Kiêu hộ vệ....không dùng được.
Nhìn lại hàng địa chi, Mão-Dậu-Mão-Thân, thì 1 dậu không xung 2 mão, nhưng chi Mão trụ ngày lại ám hợp chi Thân trụ giờ, bởi Thân tàng Canh, Mão tàng Ất, Canh hợp Ất ở thời điểm khí kim nắm lệnh nên ngầm trợ kim. Thì lập tức mão trụ năm bị Dậu trụ tháng đến xung, kim đang thế vượng thì tận diệt được mộc, nhưng lực kim cũng suy yếu-nhưng vẫn còn mạnh mẽ. Thêm nữa Nạp âm kim trụ năm khắc mất mộc( nạp âm) trụ tháng.
Nên theo gemini, Ất không thụ được lộc mà suy nhược- thiên nhược.
Dây là cách cục được cứu, khi lúc này dụng thần rõ ràng là Quí-Thủy hóa Sát sinh thân, không thấy tài thì dụng thần yên ổn. Quý tọa T-sinh nhưng bị xung mất như Ất nhật chủ, thấu ở Thân nhưng lực không mạnh,mừng là nạp âm 2 trụ ngày, giờ phụ trợ mà có lực-là cái nùm chốt cửa. Hỷ thần là Tỷ/Kiếp. Kị thần là tài
Tứ trụ này trụ năm tháng tương xung, chủ song thân khó lưỡng toàn.
tháng ngày tương xung, không sống gần anh,em. Nên có thể là đi xa quê hương lập nghiệp. Hôn nhân có thể chậm muộn/ trục trặc.
Về thần sát: thì thiên ất quí nhân trải ở 3 trụ năm, ngày, giờ, lại có thêm nhiều phúc-thiện tinh, nên gặp nguy cũng có giải cứu. 3 Thiên Ât là quá nhiều, chủ là tính không dứt khoát,chần trừ.
Văn xương, Lộc nhiều+ nhiều quí nhân , nên đoán là người thông thạo kinh sử, chuyên văn chương, rất không minh, có thể là người sáng tạo hoặc đứng đầu trong một phạm trù kinh sách, văn học. nhà văn, thơ, dịch giả chẳng hạn.
Kim, Mộc cùng vượng thì hại Thổ ( tài) ,trong trụ tài tàng không thấu, không có hỏa (thực- thương dẫn trợ ) thì chủ yếu là dựa vào sức lực lao động, vào năng lực của mình hơn là hợp nghê thương mại- đầu cơ ?
Em luận theo cách em nghĩ nên có sai anh bỏ qua, và chỉ dẫn thêm ạ
Tôi nhìn bạn không nhầm chút nào, chỉ là còn thiếu chút kinh nghiệm mà thôi. Phải nhìn đại vận nữa chứ? Vì mệnh có tốt mà vận không giúp thì cũng giống như " Ông thời đi khỏi thằng giỏi bó tay" mà thôi.
Khá lắm! Luận xem thử người này làm gì?
Khá lắm! Luận xem thử người này làm gì?
Chắc là câu này hơi khó một chút, bỏ qua nhé!
Vậy thì xin hỏi bạn trụ này đã xác định cách cục, có nên luận theo khí thế hay không? Vậy khí thế là gì ở trong tứ trụ?
Nếu đại vận Bính Thìn, năm Bính Tuất cha chết là do nguyên nhân nào? Có nên xác định Ấn thụ là cha hay không?
thưa anh Le Soi, Gemini cảm ơn anh động viên -tin tưởng ạ, giúp Gemini tự tin về cảm giác, phán đoán với vận dụng kiến thức về tứ trụ hơn.
Em không đoán chính xác được nhưng Ấn hóa Sát, dụng thủy hỷ mộc. thì có thể làm cơ quan nhà nước, hoặc làm về công việc chủ về văn thư, dịch-soạn sách, viết lách, dám chắc luôn là có nghề tay trái :D.
Mệnh mày em chỉ 2 câu là đủ cho đại vận : Trung niên thời vận hay thay đổi - Từ đó về già mạng được thông, Đại vận Ất Mão- Giáp Dần- Quí Sửu-Nhâm Tý là hành vận trên đất Ấn-Tỷ/ Kiếp mà tốt đẹp
Vậy thì xin hỏi bạn trụ này đã xác định cách cục, có nên luận theo khí thế hay không? Vậy khí thế là gì ở trong tứ trụ?
Cách cục nghe thì bất biến ( như gọi là Thất Sát Cách thì vẫn chỉ là tên), vẫn dựa vào nguyên lí dưa ngũ hành ( bát cách phổ thông) về trạng thái cân bằng thông qua Phù/ Ức/ Tiết -Hao/ Điêù hậu. Mà làm sao làm được việc đó nếu không nắm được ta mạnh hay địch mạnh ( khí thế bên nào?)....nên không thế tách biệt ra được!
Theo em là do Bính-Thương Quan thấu 2 can tiết khí nhật chủ mạnh mẽ,(Ấn lo sinh nhật chủ, Kiếp tài mà không đến khắc) sinh cho Tài-Mậu thổ do Thìn- Tuất xung nhau( Đại Vận-Xung Lưu Niên) kích động thổ vượng xuất ra, thêm nạp âm Bính Thìn, Bính Tuất đều là Thổ, nên Tài vượng, Tài Vượng- Kị thần kiện vượng trợ Sát mãnh liệt mà không có chế hóa là đại hung, Quí thủy yếu ớt, lại bị 2 thổ nạp âm khắc mất luôn 2 thủy nạp âm trụ ngày giờ mà thành ra yếu ớt, Tài sinh Sát, lẫn phá được Ấn mà đoán là có tang chế trong năm.
Theo em là do Bính-Thương Quan thấu 2 can tiết khí nhật chủ mạnh mẽ,(Ấn lo sinh nhật chủ, Kiếp tài mà không đến khắc) sinh cho Tài-Mậu thổ do Thìn- Tuất xung nhau( Đại Vận-Xung Lưu Niên) kích động thổ vượng xuất ra, thêm nạp âm Bính Thìn, Bính Tuất đều là Thổ, nên Tài vượng, Tài Vượng- Kị thần kiện vượng trợ Sát mãnh liệt mà không có chế hóa là đại hung, Quí thủy yếu ớt, lại bị 2 thổ nạp âm khắc mất luôn 2 thủy nạp âm trụ ngày giờ mà thành ra yếu ớt, Tài sinh Sát, lẫn phá được Ấn mà đoán là có tang chế trong năm.
Gemini tiến bộ nhiều lắm. Thìn Tuất tàng Mậu thổ Chính Tài. Trong mệnh Quý thủy là Ấn tinh là mẹ, nguyên lý luận Tử Bình chính là Mậu ( cha) hợp Quý (mẹ). Luận như thế cũng tốt, nhưng Gemini nhớ là : Vận là ứng kỳ, Lưu niên là Thái tuế chủ quản cát hung trong một năm. Tài là kỵ thần trong mệnh, nhưng Tuế Vận chỉ xuất hiện ở Chi mà không lộ ra Can, đây cũng là may mắn cho nhật chủ, nếu không thì mệnh chủ đi đời chứ không phải là cha. Tuế Vận xung kích động thổ càng vượng, Tuất thiết nhập hợp mệnh cục qua trụ giờ, hội thành kim cục Thân Dậu Tuất có Tân dẫn xuất mà hóa kim, một thần ngũ hành bị hóa thành một ngũ hành khác cũng có nghĩa là biến mất. Đó mới chính là nguyên nhân gây ra cha chết. Tương tự luận mẹ mất cũng vậy, Gemini tự suy nghĩ.
Tôi biết Gemini cũng như các bạn khác thiếu tài liệu học tập cho nên không thấy rõ mệnh cục như thế nào khi xảy ra biến cố cho lục thân hay cho bản thân mình. Cho nên tôi giải thích để cho các bạn biết.
Ngoài ra, chúng ta cứ suy tính là sát sinh Ấn, hoặc Tài sinh Quan mà không nghĩ đến cái khác. Đây chỉ là thường lý mà thôi.
Giả sử như kim là Tài, thủy là Quan, mệnh cách thành Tài sinh Quan. Nhưng kim đa thủy cạn, thủy đa kim trầm ... đây chính là Biến lý. Chúng ta hãy cẩn thận suy xét cho kĩ càng, nếu không sẽ đoán sai lầm.
Tài là cha, Ấn là mẹ nhưng Nam khác Nữ khác, phải dựa theo nguyên lý Âm dương ngũ hành mà định, có vậy mới không sai lầm. Nếu trong nguyên cục không thấy thì phải xem cung vị là hỉ hay kỵ. Nếu hỉ thì không thấy Tài là mệnh cục thấp; nếu kị mà không thấy Tài là cát. Các thập thần khác cũng vậy. Xem lục thân rất biến hóa, các bạn cần phải khảo sát thực tế thật nhiều vào mới thấy rõ vần đề lục thân.
Vâng thưa anh LeSoi!
Gemini có nhìn ra chi Tuất Tam Hội Kim Cục với Thân ,Dậu có sẵn, có Tân làm ngòi dẫn, mà phân vân khi đại vận Bính Thìn có trước, sau mới là Lưu niên Thái Thuế " Bính Tuất" ứng kì cai quản năm đó, nên không chắc là Tuất sẽ bị Thìn xung trước hay hội kim cục được, đó cũng là vướng mắc khi Gemini chưa thuyết phục được bản thân,vì Tài đại diện cho cha- tài là kị thần nhưng nếu vẫn tàng ở thân thì vẫn yên ổn rồi, mấu chốt là hội hóa Kim mà mất....., Gemini đã nắm được mấu chốt rồi,rất cảm ơn anh LeSoi nhiều ạ
Về luận mệnh thì phần nhiều mọi người là chưa được cọ xát với nhiều bát tự và có thông tin thực tế nghiệm chứng nên kinh nghiệm vẫn còn thô cứng chưa biến hóa sâu sắc được. Đòi hỏi một quá trình và một đam mê, sự tìm tòi và tiếp thu không ngừng!
Gemini có nhìn ra chi Tuất Tam Hội Kim Cục với Thân ,Dậu có sẵn, có Tân làm ngòi dẫn, mà phân vân khi đại vận Bính Thìn có trước, sau mới là Lưu niên Thái Thuế " Bính Tuất" ứng kì cai quản năm đó, nên không chắc là Tuất sẽ bị Thìn xung trước hay hội kim cục được, đó cũng là vướng mắc khi Gemini chưa thuyết phục được bản thân,vì Tài đại diện cho cha- tài là kị thần nhưng nếu vẫn tàng ở thân thì vẫn yên ổn rồi, mấu chốt là hội hóa Kim mà mất....., Gemini đã nắm được mấu chốt rồi,rất cảm ơn anh LeSoi nhiều ạ
Phần tôi gạch dưới ở trên, là muốn nhắc nhở các bạn. Không ai có thể nhìn thấy rõ được đâu.
Tôi giải thích chỉ có sơ lược mà thôi. Nếu luận cặn kẽ thì phải hiểu rõ thêm chỗ này, Bính/Mậu là đồng cung (Mậu ký gửi cho Bính hỏa), cho nên gặp lưu niên Tuất là cùng nhập mộ, biểu hiện là năm ứng cha nhập mộ. Thìn Tuất xung là mở mộ mà vào. Nhưng đó chỉ là Tuế Vận bên ngoài, còn làm sao mà ứng vào trong mệnh? Vậy phải tiếp tục tuần tự mà lý giải Tuất thiết nhập vào trụ giờ gặp nguyên cục có sẵn Thân Dậu cấu thành kim hội cục, lúc này mới ứng chuyện của Tuế Vận. Cho nên Tuế Vận là báo trước cho ta biết chuyện sẽ xảy ra, nhưng xảy ra cho lục thân hay cho bản thân thì phải xét ở nguyên cục.
Đây là phép xem "Trong Thực tầm Hư" đấy, khó có người mà hiểu thấu được, nay tôi đem chỗ này nói ra, vì thấy Gemini quá tâm đắc với Tử Bình và có duyện với diễn đàn này, cho nên tôi sẵn sàng chia sẽ cho các bạn vậy.
Còn mẹ mất thì do thế nào? Chỗ này càng làm khó cho bạn đấy, không dễ gì nhìn ra đâu nhé!
Vậy thì xin hỏi bạn trụ này đã xác định cách cục, có nên luận theo khí thế hay không? Vậy khí thế là gì ở trong tứ trụ?
Cách cục nghe thì bất biến ( như gọi là Thất Sát Cách thì vẫn chỉ là tên), vẫn dựa vào nguyên lí dưa ngũ hành ( bát cách phổ thông) về trạng thái cân bằng thông qua Phù/ Ức/ Tiết -Hao/ Điêù hậu. Mà làm sao làm được việc đó nếu không nắm được ta mạnh hay địch mạnh ( khí thế bên nào?)....nên không thế tách biệt ra được!
Chỗ này, Gemini chỉ thấy một khía cạnh mà thôi, tôi hỏi câu trên chẳng qua là tôi muốn thử tính linh hoạt của bạn như thế nào mà thôi. Hãy đọc kĩ lại phần luận theo khí tượng của bát tự. Khí thế chính là cách cục, bởi vì chúng hình thành từ khí của nguyệt lệnh ( chi tháng), từ chi tháng định cách, xem thần lộ ra phối với thần khác, sau đó xem nhật chủ cường nhược, hỉ kỵ mà định ra cách cục. Tức là nếu thành thì cách cục cao, nếu cách cục bị phá thì cách cục thấp. Nhưng khi suy xét cường nhược của nhật chủ, bạn phải xem toàn trụ chứ không riêng gì nhật chủ. Nhớ là vượng thần chính là chỗ bắt nguồn ngũ hành sinh khắc. VD như mệnh nam vừa luận, nếu không thấy 2 thủy nạp âm ở hai trụ ngày giờ thì kim sẽ không thể nào sinh thủy, mà trở thành Kim đa thủy trọc.
Riêng trường hợp mệnh nữ ( chị của mệnh nam ở trên), thì không luận theo khí thế được, mà phải luận theo khí số. Mệnh cục đã thành cách cục thì không luận theo khí số, đây là vấn đề cơ bản mà Gemini sẽ gặp phải xuyên suốt trong quá trình luận mệnh đấy.
Em không đoán chính xác được nhưng Ấn hóa Sát, dụng thủy hỷ mộc. thì có thể làm cơ quan nhà nước, hoặc làm về công việc chủ về văn thư, dịch-soạn sách, viết lách, dám chắc luôn là có nghề tay trái :D.
Chỗ này nếu Gemini biết dùng Mệnh cung đoán thì chính xác hơn nhiều, hình như bạn quên mất đi cách luận này thì phải?
Kính bác Lesoi
Em đang mò mẫm tự học tứ trụ, đọc topic này thấy hay và học hỏi được nhiều điều, em thử luận lá số em theo khí thế xem thế nào, có gì bác góp ý cho em với nhé, tks bác.
Nam sinh ngày 15/09/1977 lúc 18h30'
Càn tạo: Đinh Tỵ- Kỷ Dậu- Ất Hợi- Ất Dậu
Kỷ Dậu- Mậu Thân- Đinh Mùi- Bính Ngọ- Ất Tị- Giáp Thìn- Quý Mão- Nhâm Dần
Luận mệnh theo khí thế: theo dòng ngũ hành Đinh hỏa ở can năm sinh Kỷ thổ can tháng, Kỷ thổ lại sinh cho Dậu kim chi tháng/giờ, Dậu kim chi tháng/giờ sinh cho Hợi thủy ở chi ngày, Hợi thủy sinh Ất mộc can ngày/ giờ. Có thể thấy khí của ngũ hành ngưng tại Ất Mộc, nhưng vì Hợi thủy bị Tỵ hỏa trụ năm xung nên không hấp thụ được hết nguyên khí của Kim tại trụ tháng/ giờ, vì thế Ất mộc chỉ hưởng được một phần khí của Hợi thủy, dư khí của Dậu kim không được Hợi thủy hóa hết xông lên công chiến Ất mộc làm cho bản Ất mộc bị tổn thương, Canh kim tàng trong chi năm cũng không được hóa thủy nên tìm Giáp mộc tàng trong Hợi để chiến, vào vận niên thích hợp sẽ làm cho Giáp bị tổn thương. Năm 1997 đương số bị cái quạt trần chém vào đầu phải vào viện khâu mất 5 mũi.
Tập luận một đoạn nhỏ rất mong được bác góp ý để em học hỏi thêm, cảm ơn bác nhiều.
Kính bác Lesoi
Em đang mò mẫm tự học tứ trụ, đọc topic này thấy hay và học hỏi được nhiều điều, em thử luận lá số em theo khí thế xem thế nào, có gì bác góp ý cho em với nhé, tks bác.
Nam sinh ngày 15/09/1977 lúc 18h30'
Càn tạo: Đinh Tỵ- Kỷ Dậu- Ất Hợi- Ất Dậu
Kỷ Dậu- Mậu Thân- Đinh Mùi- Bính Ngọ- Ất Tị- Giáp Thìn- Quý Mão- Nhâm Dần
Luận mệnh theo khí thế: theo dòng ngũ hành Đinh hỏa ở can năm sinh Kỷ thổ can tháng, Kỷ thổ lại sinh cho Dậu kim chi tháng/giờ, Dậu kim chi tháng/giờ sinh cho Hợi thủy ở chi ngày, Hợi thủy sinh Ất mộc can ngày/ giờ. Có thể thấy khí của ngũ hành ngưng tại Ất Mộc, nhưng vì Hợi thủy bị Tỵ hỏa trụ năm xung nên không hấp thụ được hết nguyên khí của Kim tại trụ tháng/ giờ, vì thế Ất mộc chỉ hưởng được một phần khí của Hợi thủy, dư khí của Dậu kim không được Hợi thủy hóa hết xông lên công chiến Ất mộc làm cho bản Ất mộc bị tổn thương, Canh kim tàng trong chi năm cũng không được hóa thủy nên tìm Giáp mộc tàng trong Hợi để chiến, vào vận niên thích hợp sẽ làm cho Giáp bị tổn thương. Năm 1997 đương số bị cái quạt trần chém vào đầu phải vào viện khâu mất 5 mũi.
Tập luận một đoạn nhỏ rất mong được bác góp ý để em học hỏi thêm, cảm ơn bác nhiều.
Bạn này hình như chịu nhiều ảnh hưởng của Kim Dung tiên sinh, thêm chút văn vẻ nữa thì đã có tác phẩm Đại thần điêu...
Nói vui với bạn vậy thôi chứ luận tứ trụ càng nên đơn giản hóa đi càng tốt, sinh khắc vốn có lý của nó - cũng như tứ trụ lấy lệnh tháng làm đề cương luận mệnh vậy... Thái tiên sinh mang danh là viết ra nhưng thực ra trong sách đã có cả, chẳng hạn chương Nguyên Lưu của Trích Thiên Tủy. Bạn có thể đọc lại ngoài diễn đàn.
Bạn này hình như chịu nhiều ảnh hưởng của Kim Dung tiên sinh, thêm chút văn vẻ nữa thì đã có tác phẩm Đại thần điêu...
Nói vui với bạn vậy thôi chứ luận tứ trụ càng nên đơn giản hóa đi càng tốt, sinh khắc vốn có lý của nó - cũng như tứ trụ lấy lệnh tháng làm đề cương luận mệnh vậy... Thái tiên sinh mang danh là viết ra nhưng thực ra trong sách đã có cả, chẳng hạn chương Nguyên Lưu của Trích Thiên Tủy. Bạn có thể đọc lại ngoài diễn đàn.
Kính bác, nghe lời bác em luận theo cách đơn giản, bác xem rồi góp ý cho em với nhé, tks bác.
Càn tạo: Đinh Tỵ- Kỷ Dậu- Ất Hợi- Ất Dậu
Ất mộc sinh tháng Dậu lâm tuyệt địa không được lệnh tháng sinh, mừng có Nhâm thủy tàng trong Hợi chi ngày sinh trợ, Nhâm sinh tháng Dậu là đất Mộc Dục nên có lực. Giáp kiếp dư khí tàng trong Hợi sinh tháng Dậu là thai địa nên lực giúp không nhiều. Can giờ Ất mộc sinh tháng Dậu là tuyệt địa lại tọa trên đất Dậu kim nên sức cùng lực kiệt lực trợ giúp không đáng kể.
Tân kim sinh tháng Dậu là đất lâm quan, Canh kim sinh tháng Dậu là đất đế vượng nên Quan/ Sát vừa nhiều vừa vượng. Thiên tài Kỷ thổ sinh tháng Dậu là đất trường sinh, có rễ tại Tỵ nên Thiên tài vượng, chính tài suy. Tương tự ta có Thực vượng, Thương suy.
Tổng kết lại mệnh này thân thiên nhược, Sát trọng, dụng thần trước chọn Nhâm/ Ấn hóa Sát trợ thân sau chọn Tỷ/ Kiếp.
nhưng vì Hợi thủy bị Tỵ hỏa trụ năm xung nên không hấp thụ được hết nguyên khí của Kim tại trụ tháng/ giờ,
Nói chung bạn luận theo khí thế phải bắt nguồn từ địa chi trong tứ trụ. Nhưng câu trên theo tôi là chưa trôi, vì Tỵ Dậu là hơp rồi.
Nói chung bạn luận theo khí thế phải bắt nguồn từ địa chi trong tứ trụ. Nhưng câu trên theo tôi là chưa trôi, vì Tỵ Dậu là hơp rồi.
Cảm ơn bác đã chỉ giáo, em đang mò mẫm tự học nên không có căn bản bác ạ, hic.
Em có một số băn khoăn về tứ trụ của mình như sau, mong được bác chỉ bảo thêm:
1. Tị trụ năm có bán hợp được với Dậu ở trụ tháng không? Hợp rồi có hóa kim không? hóa rồi thì sao? trường hợp này có thể gọi là Thương quan hợp Sát không ạ?
2. Tị trụ năm có hợp với Dậu và Kỷ ở trụ tháng (Kỷ thay mặt cho Sửu) thành tam hợp Tị- Dậu- Sửu hóa kim không? Nếu có thì ảnh hưởng đến vận số ra sao?
3. Lực của Hỏa và lực của Kim trong bản số là cân bằng hay Hỏa > Kim? Kim > Hỏa? liệu có hình thành chiến cục Hỏa- Kim tương chiến mộc chịu tai ương hay không?
4. Hỏa- Thổ là nhàn thần hay là kị thần?
Rất mong được bác chỉ giáo, cảm ơn bác nhiều, chúc bác và gia đình an lạc.
1. Tị trụ năm có bán hợp được với Dậu ở trụ tháng không? Hợp rồi có hóa kim không? hóa rồi thì sao? trường hợp này có thể gọi là Thương quan hợp Sát không ạ?
2. Tị trụ năm có hợp với Dậu và Kỷ ở trụ tháng (Kỷ thay mặt cho Sửu) thành tam hợp Tị- Dậu- Sửu hóa kim không? Nếu có thì ảnh hưởng đến vận số ra sao?
Tị hợp Dậu là bán hợp kim cục, nhưng vì không có Canh Tân lộ ra thiên can để dẫn hóa cho nên không có hóa. Khi nào thấy ở vận tuế thì sẽ hóa thành.
3. Lực của Hỏa và lực của Kim trong bản số là cân bằng hay Hỏa > Kim? Kim > Hỏa? liệu có hình thành chiến cục Hỏa- Kim tương chiến mộc chịu tai ương hay không?
Tạo này lực kim là mạnh nhất tức là Sát tinh mạnh. Tị hợp khắc Dậu nhưng vì Dậu là bản khí nắm quyền trong nguyệt lệnh cho nên lực hỏa không ăn thua gì đồi với nó cả.
4. Hỏa- Thổ là nhàn thần hay là kị thần?
Tạo này lấy thủy mộc làm hỉ dụng, thì thổ kim là kị. Hỏa là nhàn thần. Lẽ ra hỏa là dụng thần thì cách cục sẽ thành Thực thần chế Sát, nhưng vì Đinh hỏa sinh Kỷ thổ, thổ lại sinh kim khắc nhật chủ cho nên nó là thần trung gian. Tùy theo diễn biến tuế vận mà nó phát sinh thành kị hay thành hỉ mà luận.
Kính bác lesoi
Rất vui vì được bác quan tâm chỉ giáo, qua bố cục lá số như vậy có thể nhận định sơ bộ số này có thương tật và học hành không đến nơi đến chốn do các vận trình đã qua đều là kị thần được ko bác?
Bạn cứ theo hỉ kị mà luận.
Tạo này lực kim là mạnh nhất tức là Sát tinh mạnh. Tị hợp khắc Dậu nhưng vì Dậu là bản khí nắm quyền trong nguyệt lệnh cho nên lực hỏa không ăn thua gì đồi với nó cả.
Bác Lesoi cho em hỏi thêm chút:
1. Em có thể tách Thất sát ra thành 2 phần để luận như thế này có được không: Sát/ Dậu tại chi tháng bị Thương quan/ Tị tại chi năm hợp chặt không hóa nên không còn đủ mạnh để công thân. Sát/ Dậu tại chi giờ sinh Ấn/ Hợi chi ngày hộ thân. Điều này dẫn đến tạo này thoạt trông là Sát trọng thân nhược nhưng thực chất điểm xấu lại nằm ở chỗ Tài vượng thân nhược, thân lại bị Thực thần trụ năm hút khí sinh tài nên vì ham cầu tài mà mang họa vào thân?
2. Tạo này có Dậu- Dậu tự hình làm cho khí của Kim tăng hay giảm?
3. Không vong tọa trụ tháng và trụ giờ là phúc hay là họa?
Rất mong được bác chỉ giáo, tks.
1. Em có thể tách Thất sát ra thành 2 phần để luận như thế này có được không: Sát/ Dậu tại chi tháng bị Thương quan/ Tị tại chi năm hợp chặt không hóa nên không còn đủ mạnh để công thân. Sát/ Dậu tại chi giờ sinh Ấn/ Hợi chi ngày hộ thân. Điều này dẫn đến tạo này thoạt trông là Sát trọng thân nhược nhưng thực chất điểm xấu lại nằm ở chỗ Tài vượng thân nhược, thân lại bị Thực thần trụ năm hút khí sinh tài nên vì ham cầu tài mà mang họa vào thân?
Theo bạn như thế nào?
2. Tạo này có Dậu- Dậu tự hình làm cho khí của Kim tăng hay giảm?
Đã giải thích ở trên rồi. Lực kim mạnh nhất trong trụ.
3. Không vong tọa trụ tháng và trụ giờ là phúc hay là họa?
Không vong gặp hợp, trong trường hợp này không còn có lực, vì đã bị hợp. Chỉ lo khi nào có lực xung tán từ bên ngoài vào phá đi lực hợp thì KV mới thoát ra gây hại. Nếu ki thần là KV thì không ngại, hỉ thần gặp KV thì không tốt.
Còn lại những cái khác đã có ở diễn đàn rất nhiều, các bạn nên tìm hiểu thêm. Hãy tìm hiểu trước rồi hỏi.
Theo bạn như thế nào?
Kính bác
Đương số tốt nghiệp đại học năm 2000 (ĐTVT), từ 2000- 2004 đi làm công ăn lương (trước làm kỹ thuật sau làm kinh doanh). 2005- 2013: mở công ty riêng kinh doanh thiết bị viễn thông, trong thời gian này 2005- 2008 làm ăn tốt, 2008 hăng máu mở thêm 02 công ty nữa, 2009 bị lừa một vố đau mất một khoản tiền lớn, 2009- 2012 cố gắng cầm cự, 2013 đứt gánh dẹp công ty đi làm thuê. 2013 chán đời quyết định lấy vợ, chuyển vào miền Nam sống và làm việc (sinh ra ở miền trung, 1995- 2013 học tập và làm việc tại HN). Từ sau khi lấy vợ cuộc sống yên ổn tốt đẹp, hiện phụ trách kinh doanh khu vực phía Nam cho một công ty ở HN, công việc chủ yếu là đối ngoại đi lại nhiều.
Trong quá trình kinh doanh đương số ham hố kiếm tiền nhưng lực không đủ phải huy động thêm để đầu tư, lãi làm ra không bù đủ chi phí dẫn đến dẹp tiệm, mệt mỏi. Đây có phải là ví dụ tài đa thân nhược, thân không gánh nổi tài nên mang họa vào thân?
Bác xem giúp vận Giáp Thìn đương số có thể khởi nghiệp lại một lần nữa ko? khả năng thành công thế nào? Tks bác nhiều.
Tị hợp Dậu là bán hợp kim cục, nhưng vì không có Canh Tân lộ ra thiên can để dẫn hóa cho nên không có hóa. Khi nào thấy ở vận tuế thì sẽ hóa thành.
Nếu Tị và Dậu bán hợp, mà tháng Tị, hai bên lộ Kỷ, thai nguyên lộ Canh thì có tính là hóa không anh lesoi.
Em cũng muốn hỏi thêm về vai trò và phạm vi ứng dụng của cung Mệnh và Thai nguyên, liệu có thể coi như thêm 2 trụ mới và tính toán như bình thường, hay chỉ chủ yếu ứng dụng trong một số trường hợp nhất định ?
Regards,
Kính bác, nghe lời bác em luận theo cách đơn giản, bác xem rồi góp ý cho em với nhé, tks bác.
Càn tạo: Đinh Tỵ- Kỷ Dậu- Ất Hợi- Ất Dậu
Ất mộc sinh tháng Dậu lâm tuyệt địa không được lệnh tháng sinh, mừng có Nhâm thủy tàng trong Hợi chi ngày sinh trợ, Nhâm sinh tháng Dậu là đất Mộc Dục nên có lực. Giáp kiếp dư khí tàng trong Hợi sinh tháng Dậu là thai địa nên lực giúp không nhiều. Can giờ Ất mộc sinh tháng Dậu là tuyệt địa lại tọa trên đất Dậu kim nên sức cùng lực kiệt lực trợ giúp không đáng kể.
Tân kim sinh tháng Dậu là đất lâm quan, Canh kim sinh tháng Dậu là đất đế vượng nên Quan/ Sát vừa nhiều vừa vượng. Thiên tài Kỷ thổ sinh tháng Dậu là đất trường sinh, có rễ tại Tỵ nên Thiên tài vượng, chính tài suy. Tương tự ta có Thực vượng, Thương suy.
Tổng kết lại mệnh này thân thiên nhược, Sát trọng, dụng thần trước chọn Nhâm/ Ấn hóa Sát trợ thân sau chọn Tỷ/ Kiếp.
hihi, bình mệnh này tạm giữ lại câu cuối của bạn thôi.
Nói về khí tượng không phải cứ thấy Hỏa là cho rằng sinh cho Thổ, thấy Thổ là cho rằng sinh cho Kim..., cũng tờ tợ như trong dịch hào động thì mới biến, cùng nhật nguyệt mà ra sinh khắc, tứ trụ vẫn phải từ lệnh tháng là vậy.
Đã xác định dụng hỷ cả ở trụ ngày rồi thì theo đó mà dụng sự thôi. Chúc mừng bạn.
hihi, bình mệnh này tạm giữ lại câu cuối của bạn thôi.
Nói về khí tượng không phải cứ thấy Hỏa là cho rằng sinh cho Thổ, thấy Thổ là cho rằng sinh cho Kim..., cũng tờ tợ như trong dịch hào động thì mới biến, cùng nhật nguyệt mà ra sinh khắc, tứ trụ vẫn phải từ lệnh tháng là vậy.
Đã xác định dụng hỷ cả ở trụ ngày rồi thì theo đó mà dụng sự thôi. Chúc mừng bạn.
Em cũng không biết đúng sai thế nào, bác cho em vài lời với ạ, tks bác.
Em cũng không biết đúng sai thế nào, bác cho em vài lời với ạ, tks bác.
Mình không dám bàn đúng sai, suy ngẫm hơn là suy lý. Bạn suy ngẫm thêm.
Mệnh trời - tính người, đến lúc nào bạn có thể thay đổi được tính nết, thói quen ?
Mình không dám bàn đúng sai, suy ngẫm hơn là suy lý. Bạn suy ngẫm thêm.
Mệnh trời - tính người, đến lúc nào bạn có thể thay đổi được tính nết, thói quen ?
Bác cụ thể hơn cho em với ạ, tks bác.
Nếu Tị và Dậu bán hợp, mà tháng Tị, hai bên lộ Kỷ, thai nguyên lộ Canh thì có tính là hóa không anh lesoi.
Trả lời: không.
Em cũng muốn hỏi thêm về vai trò và phạm vi ứng dụng của cung Mệnh và Thai nguyên, liệu có thể coi như thêm 2 trụ mới và tính toán như bình thường, hay chỉ chủ yếu ứng dụng trong một số trường hợp nhất định ?
Có người luận chung, nhưng đối với riêng tôi thì luận riêng. ( bạn tham khảo thêm ở sách Mệnh lý tinh hoa của Bành Khang Dân tiên sinh, đã post trên diễn đàn, mục Manh phái)
Bác cụ thể hơn cho em với ạ, tks bác.
hihi, mình là hạng phàm phu nhưng cứ thích đề cập đến chuyện thánh nhân. Bạn đọc thêm chương 4 - Trung Dung Đạo xem có thu lượm được gì không ? (link http://nhantu.net/)
Dạo này Gemini bận xây sửa nhà và lo công việc nên không onl thường trao dồi mệnh lý với mọi người được và tiếp mạch truyền đạt/ trao đổi bổ ích với anh LeSoi ạ.
anh Thiếu Bá, gởi 1 link hay quá!
Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên.
Gemini có đọc được điển tích mà 4 người mưu sĩ (Tôn Tẫn, Tô Tần, Trương Nghi, Trương Lương) đệ tử của Quỉ Cốc Tử....đều dc Quỉ Cốc Tử tặng mỗi người 1 quyến binh pháp/ hoặc kinh thư. Tô Tần là được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, nhờ vận dụng được đạo trong đó mà tiến cung chầu Vương, và về sau truyền lại Binh Pháp Tôn Tử, cái lý xa xôi đều trong Hoàng Để Âm Phù Kinh :)
Trang nhantu.net mọi người biết đến từ lâu và vẫn chia sẻ nhau trên mạng đó gemini.
Nói chung tinh thần đọc thì cứ phải xếp tư tưởng bói toán vào hạng bét, hì
Kính bác Lesoi
Còn lại những cái khác đã có ở diễn đàn rất nhiều, các bạn nên tìm hiểu thêm. Hãy tìm hiểu trước rồi hỏi.
Nghe lời bác chỉ bảo em có tìm đọc trên diễn đàn phần luận về cách cục phối hợp với vượng suy, nay em xin luận lại và nhờ bác góp ý thêm:
1. Ất mộc sinh tháng Dậu là Thất sát cách, Thực vượng sinh Tài, Tài vượng sinh Sát công thân. Tứ trụ thân nhược Sát trọng tài vượng nên chọn dụng thần là mộc (Tỷ/ Kiếp), hỉ thần là thủy (Ấn/ Kiêu). Điểm xấu của tứ trụ này là do lộ Kỷ thổ vượng hóa Thực sinh Sát nên làm cho Sát càng thêm vượng công thân.
2. Xét riêng dụng thần Tỷ/ Kiếp thì Giáp kiếp tài tốt hơn Ất vì khi Giáp xuất hiện sẽ hợp với Kỷ vừa hợp vừa khắc làm mất Tài lúc này Thực thần không bị Tài hóa quay ra chế Sát làm lợi cho mệnh cung. Mặt khác Giáp là dương mộc không sợ Tân kim (Sát) nên có thể hộ thân địch Sát.
3. Hỉ thần Ấn/ Kiêu thì Ấn tốt hơn Kiêu vì: tứ trụ lộ Thực thần và Thiên Tài nên khi Ấn xuất hiện thì có tác dụng hóa Sát hộ thân phá tài, còn khi Kiêu xuất hiện thì đoạt Thực, Thực bị tổn thương không chế được Sát thì Sát sẽ công thân gây họa.
4. Vận Ất Tị: xem đại vận lấy chi làm trọng, Tị thuộc phương Nam hỏa, tứ trụ thân nhược lại hành vận phương Nam hỏa bị hỏa hút khí càng thêm nhược. Ất đại vận bị hỏa hút khí nên lực mỏng không giúp gì được cho thân. Tị của đại vận vừa hợp Dậu sinh Kim lại vừa xung Hợi là xung mất dụng thần nên khi bước vào vận này đương số bị áp lực nặng nề từ nhiều phía dẫn đến phá tài.
5. Vận Giáp Thìn: Giáp hợp Kỷ, Thìn hợp Dậu. Thìn là đất ướt (Mậu- Ất- Quý) thuộc phương Đông mộc nên Ất mộc tự vượng được Giáp hỗ trợ trở nên mạnh mẽ. Thiên tài Kỷ thổ bị Giáp hợp khắc nên mất tác dụng trong vận này, tứ trụ còn lại thân vượng lộ Thực dụng Thực Thương tiết tú nên vận này có thể cầu danh và tài (danh > tài).
Rất mong được bác xem xét chỉ ra các điểm đúng/ sai trong các phần luận ở trên, trân trọng cảm ơn và kính chúc bác cùng gia đình nghỉ lễ vui vẻ.
@nvx77:
Nhìn chung lối tư duy của bạn về cách cục là rất tốt. Tôi có ý hỏi bạn câu dưới:
2. Xét riêng dụng thần Tỷ/ Kiếp thì Giáp kiếp tài tốt hơn Ất vì khi Giáp xuất hiện sẽ hợp với Kỷ vừa hợp vừa khắc làm mất Tài lúc này Thực thần không bị Tài hóa quay ra chế Sát làm lợi cho mệnh cung. Mặt khác Giáp là dương mộc không sợ Tân kim (Sát) nên có thể hộ thân địch Sát.
Bạn xét Mệnh cung như thế nào?
@nvx77:
Nhìn chung lối tư duy của bạn về cách cục là rất tốt. Tôi có ý hỏi bạn câu dưới:
Bạn xét Mệnh cung như thế nào?
Hi bác, chắc tại em mới nhập môn nên dùng từ chưa chính xác, ý của em mệnh cung chính là Ất mộc, là bản thân mình.
Bác Hùng đã vào nhà thì cho em đôi lời về tạo này, từ lúc bước vào vận Ất Tị thì bị thất bại nặng nề, giờ đang an phận chờ thời cơ để gây dựng lại sự nghiệp, tks bác.
Bạn luận như vậy là tốt rồi, thủy mộc là hỉ, thổ kim là kỵ. Năm nay cũng tạm được, vì Mùi hợp Hợi hóa mộc trợ thân không còn sợ Sát phá thân nữa. Năm nay sẽ đỡ hơn.
Mặc dù là vận không tốt do Tị xung Hợi, nhưng cũng tùy lưu niên mà suy cát hung. Không nhất thiết cứ thấy vận xấu là xấu hết tất cả.
Bạn luận như vậy là tốt rồi, thủy mộc là hỉ, thổ kim là kỵ. Năm nay cũng tạm được, vì Mùi hợp Hợi hóa mộc trợ thân không còn sợ Sát phá thân nữa. Năm nay sẽ đỡ hơn.
Mặc dù là vận không tốt do Tị xung Hợi, nhưng cũng tùy lưu niên mà suy cát hung. Không nhất thiết cứ thấy vận xấu là xấu hết tất cả.
Kính bác Lesoi
Từ năm 2014 em đi làm thuê, được trọng dụng, thu nhập cũng khá có dư để trả nợ cũ nhưng vẫn chưa giải quyết hết, chắc phải hết 2016 mới về lại mặt đất, hi vọng năm 2015 tốt hơn 2014 để có tiền giải quyết công nợ.
Em tìm đến các môn mệnh lý từ lúc làm ăn gặp nhiều xui xẻo thất bại (khoảng 2009, trước đó không đi xem bói toán bao giờ), mục đích là để hiểu mình rồi tìm cách xu cát tị hung, có duyên với bác trong topic này rất mong được bác chỉ bảo thêm.
Em có một số băn khoăn về tứ trụ của mình rất mong được bác chỉ giáo:
1. Phần luận về vận Giáp Thìn: bác có góp ý gì thêm không ạ? Vận này dụng Thực thần tiết tú hay có thể dụng cả Tài- Quan- Sát- Thực?
2. Tứ trụ lộ Thực thần- Đinh ở trụ năm, lộ Thiên tài- Kỷ trụ tháng thì Thực thần này có hút được khí của Ất mộc không? Lực hút nhiều hay ít?
Cảm ơn bác nhiều.
Em tìm đến các môn mệnh lý từ lúc làm ăn gặp nhiều xui xẻo thất bại (khoảng 2009, trước đó không đi xem bói toán bao giờ), mục đích là để hiểu mình rồi tìm cách xu cát tị hung, có duyên với bác trong topic này rất mong được bác chỉ bảo thêm.
Em có một số băn khoăn về tứ trụ của mình rất mong được bác chỉ giáo:
1. Phần luận về vận Giáp Thìn: bác có góp ý gì thêm không ạ? Vận này dụng Thực thần tiết tú hay có thể dụng cả Tài- Quan- Sát- Thực?
2. Tứ trụ lộ Thực thần- Đinh ở trụ năm, lộ Thiên tài- Kỷ trụ tháng thì Thực thần này có hút được khí của Ất mộc không? Lực hút nhiều hay ít?
Phần gạch dưới hầu hết người tìm đến các diễn đàn luận mệnh thì đa số đều giống bạn, khi giàu sang phú quý thì hầu như không tin vận mệnh, cứ cho là mình giỏi mới có được thành tựu. Đến khi suy sụp thì mới nghĩ đến vận mệnh.
Câu 1 và 2 đều liên quan nhau. Tuy nhiên, do kết cấu nguyên cục của bạn có nhiều điều rất không thuận. Ai cũng vậy, khi biết luận mệnh một chút thì luôn muốn tìm cái tốt cho mình, và luôn có phần chủ quan ở trong đó cả. Bạn cần cẩn trọng khi đến năm 2018 ( lưu niên Mậu Tuất), là năm giao vận, có liên quan đến vợ và cha. Khi luận mệnh phải đi từ nguyên cục, xem nguyên cục tốt hay xấu đã, ở đây liên quan đến hỉ kỵ ngũ hành của tứ trụ, trong đó trọng tâm là can ngày. Mệnh có kết cấu tốt, thì khi gặp Tuế Vận tốt nó sẽ thể hiện rất rõ cái tốt, còn gặp Tuế Vận xấu nó cũng thể hiện cái xấu rất rõ, nhất là những năm vào thời điểm giao vận cái tốt và xấu hiện ra ngay. Mệnh hỉ là thủy mộc, kị là thổ kim, khi thổ vượng sẽ khắc thủy sinh kim, chớ có lấy hành nào riêng lẻ mà đoán, phải phối các trụ với nhau, xem hành nào mạnh nhất mà đoán. Tôi không thể nói ra hết cụ thể cho một mệnh con người được, có cái xấu quá thì chỉ khuyên răn, còn có cái tốt thì rất hoan hỉ cho mệnh chủ. Đó là nguyên tắc của người luận mệnh.
Nhớ đến năm này, bạn nên định theo chính hướng Đông mà hành sự, vì Mão hợp Tuất, hội Thìn, cung Mão ở chính hướng Đông.
Kính bác Lesoi
Câu 1 và 2 đều liên quan nhau. Tuy nhiên, do kết cấu nguyên cục của bạn có nhiều điều rất không thuận. Ai cũng vậy, khi biết luận mệnh một chút thì luôn muốn tìm cái tốt cho mình, và luôn có phần chủ quan ở trong đó cả. Bạn cần cẩn trọng khi đến năm 2018 ( lưu niên Mậu Tuất), là năm giao vận, có liên quan đến vợ và cha
Vận Giáp Thìn: Giáp hợp Kỷ, lưu niên Mậu Tuất, Tuất xung Thìn: liên hệ với thực tế có thể năm này bố vợ có vấn đề vì hiện tại ông đang bị bệnh nằm một chỗ. Giáp hợp Kỷ là hợp mất cha hoặc vợ phải không bác?
Khi luận mệnh phải đi từ nguyên cục, xem nguyên cục tốt hay xấu đã, ở đây liên quan đến hỉ kỵ ngũ hành của tứ trụ, trong đó trọng tâm là can ngày. Mệnh có kết cấu tốt, thì khi gặp Tuế Vận tốt nó sẽ thể hiện rất rõ cái tốt, còn gặp Tuế Vận xấu nó cũng thể hiện cái xấu rất rõ, nhất là những năm vào thời điểm giao vận cái tốt và xấu hiện ra ngay. Mệnh hỉ là thủy mộc, kị là thổ kim, khi thổ vượng sẽ khắc thủy sinh kim, chớ có lấy hành nào riêng lẻ mà đoán, phải phối các trụ với nhau, xem hành nào mạnh nhất mà đoán. Tôi không thể nói ra hết cụ thể cho một mệnh con người được, có cái xấu quá thì chỉ khuyên răn, còn có cái tốt thì rất hoan hỉ cho mệnh chủ. Đó là nguyên tắc của người luận mệnh.
Nhớ đến năm này, bạn nên định theo chính hướng Đông mà hành sự, vì Mão hợp Tuất, hội Thìn, cung Mão ở chính hướng Đông.
Em sinh ra ở miền trung, từ 1995- 2013 học tập và làm việc tại HN, 2014 đến nay chuyển vào miền Nam, theo em hiểu thì hướng chính Đông là so với khu vực mình đang sống và làm việc, nếu lấy SG làm trung tâm phía Nam thì chính Đông là VT phải ko bác? Hiện tại VC em đang sống tại VT bác ạ.
Cảm ơn bác nhiều.
Giáp hợp Kỷ là hợp mất cha hoặc vợ phải không bác?
không phải hợp là mất, là chết. Thiên can là tượng của Thập thần đại diện cho lục thân nào đó trong tứ trụ. Nhưng phải nhận định lục thân nào ở cung vị nào? Cung vị cha mẹ thường là định vị ở trụ năm và tháng ( đa số là trụ năm), vợ thì cung vị là ở chi ngày. Cũng là Tài nhưng phải phân ra cung vị, cung vị nào bị xung chế thì cung vị đó có vấn đề.
nếu lấy SG làm trung tâm phía Nam thì chính Đông là VT phải ko bác? Hiện tại VC em đang sống tại VT bác ạ.
Lấy nơi sinh ra làm trung tâm. Nhưng tôi nói ở trên không đơn giản là nơi sinh sống làm việc, mà còn ngay chỗ ở, phòng ngũ, nhà ở, nơi làm việc, bố trí nội thất ... lấy hướng thủy mộc làm chủ. Ở đây tôi nói chữ Mão ( chính đông), cũng đồng nghĩa với phòng ngũ, hướng nhà, bàn làm việc, ... đều thuận theo hướng đông. Nếu như chỗ ở hiện tại sinh sống đã lâu thì căn cứ nơi đó mà định vị trí. Nếu sống ở đó, thì mặt nhà hướng về phía đông là tốt nhất ( tức là tọa Dậu, hướng Mão).
@nvx77 nên tham khảo thêm 2 chỗ này:
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?1067-Ph%C3%A2n-lo%E1%BA%A1i-ph%C3%AA-%C4%91o%C3%A1n-b%C3%A1t-t%E1%BB%B1
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?956-18-ph%C3%A9p-C%E1%BA%A3i-m%E1%BB%87nh
@nvx77 nên tham khảo thêm 2 chỗ này:
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?1067-Ph%C3%A2n-lo%E1%BA%A1i-ph%C3%AA-%C4%91o%C3%A1n-b%C3%A1t-t%E1%BB%B1
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?956-18-ph%C3%A9p-C%E1%BA%A3i-m%E1%BB%87nh
Em sẽ đọc kỹ xem đoạn nào chưa hiểu thì lại làm phiền bác chỉ giáo ạ.
Em từ nhỏ đến giờ không hiểu sao ko thích cầu quan, chỉ thích kiếm tiền, bác cho em hỏi một câu mà em luôn canh cánh ở trong lòng là: tứ trụ của em có thể cầu tài không? Nếu ko thì em tính cách khác sống an phận thủ thường vậy.
Sao lại bi quan thế, bạn đang đi vào các hành vận Tỵ và Thìn, hợp chế Sát tinh, có Ất Giáp thấu hộ căn, còn lại là Thực sinh Tài, thích hợp kinh doanh là đúng rồi. Các vận sau đều tốt cho mệnh, vì có Ấn Kiêu phù trợ. Bạn rất nhờ vợ, cung vợ là Hỉ thần, vợ chồng nên thỏa thuận nhau thật tốt. May cho bạn là cung tháng và giờ Dậu là kỵ thần gặp KV cho nên mới còn may mắn. Nếu Dậu không gặp KV thì Tài xuất hiện phá Ấn sinh Sát mới sợ. Bệnh trong tứ trụ ở đây là Sát tinh, hóa giải Sát tinh thì mệnh sẽ tốt. Tuy nhiên những điều tôi lưu ý với bạn chỉ vì lúc giao đại vận giữa cũ và mới thường phát sinh chuyện không hay, vượt qua khỏi thì sẽ đỡ. Số bạn phải kiếm tiền một cách vất vả, chủ yếu là vợ chồng nương tựa nhau mà sống, trụ tháng và giờ gặp KV là biểu thị tiêu chí anh em, gia đình không có sự tương trợ.
Nói thêm cho nvx77 yên tâm, Mệnh cung của bạn có Thiên Ất quý nhân ngụ, có Thái Dương tinh ở Thê cung đối chiếu mệnh cung. Thái Âm tinh ngụ ở Thân cung. Cung huynh đệ có Thiên Ất lâm, số nhờ anh em và vợ đấy. Hậu vận tốt cố gắng lên, tất nhiên lúc giao vận Giáp Thìn phải đề phòng tổn tài, nếu không vợ có bệnh tình không tốt. Về phần giải cứu tôi đã nói rõ cho bạn rồi, nhất là phòng ngũ hai vợ chồng, nên ở hướng đông, đầu giường xoay về đó, chân đạp hướng Tây, có thể giải cứu phần nào hung sát, nếu có điều kiện, phòng khách bố trí tranh thủy mộc (tranh lụa cũng được, nhưng có cây cối và nước), dùng đá thạch anh màu xanh lá cây, tường trong sơn màu xanh lá cây, tường ngoài sơn mà xanh dương là tốt. Tôi nghĩ bấy nhiêu cũng có thể hóa giải phần nào. Nên nhớ là trong phong thủy bát tự không có nói chuyện cúng bái thần thánh thì sẽ hóa giải, mà đặt phương hướng lên hàng đầu. Thôi, như vậy cũng là hết sức với bạn rồi, nên yên tâm tu dưỡng thần khí, chớ vì chuyện Tài chính mà quá bạn tậm dễ phát sinh chứng suy nhược thần kinh đấy ( vì mộc chính là hệ thống thần kinh).
Nói thêm cho nvx77 yên tâm, Mệnh cung của bạn có Thiên Ất quý nhân ngụ, có Thái Dương tinh ở Thê cung đối chiếu mệnh cung. Thái Âm tinh ngụ ở Thân cung. Cung huynh đệ có Thiên Ất lâm, số nhờ anh em và vợ đấy. Hậu vận tốt cố gắng lên, tất nhiên lúc giao vận Giáp Thìn phải đề phòng tổn tài, nếu không vợ có bệnh tình không tốt. Về phần giải cứu tôi đã nói rõ cho bạn rồi, nhất là phòng ngũ hai vợ chồng, nên ở hướng đông, đầu giường xoay về đó, chân đạp hướng Tây, có thể giải cứu phần nào hung sát, nếu có điều kiện, phòng khách bố trí tranh thủy mộc (tranh lụa cũng được, nhưng có cây cối và nước), dùng đá thạch anh màu xanh lá cây, tường trong sơn màu xanh lá cây, tường ngoài sơn mà xanh dương là tốt. Tôi nghĩ bấy nhiêu cũng có thể hóa giải phần nào. Nên nhớ là trong phong thủy bát tự không có nói chuyện cúng bái thần thánh thì sẽ hóa giải, mà đặt phương hướng lên hàng đầu. Thôi, như vậy cũng là hết sức với bạn rồi, nên yên tâm tu dưỡng thần khí, chớ vì chuyện Tài chính mà quá bạn tậm dễ phát sinh chứng suy nhược thần kinh đấy ( vì mộc chính là hệ thống thần kinh).
Hi bác
Em kêu la thế để bác xem giúp em chứ em to gan lắm chưa buông súng được bác ạ. Đúng là mấy năm liền gặp khó khăn 2009- 2013 bị sức ép tứ phía nên cũng khá mệt mỏi nhưng chí khí thì vẫn còn nguyên. Thất bại là bài học hay, may là vẫn kịp pause lại. Em vẫn lo cái năm Bính Thân 2016 bác ạ, qua được năm này em sẽ khởi nghiệp lại từ đầu, dự kiến cuối năm 2017.
2016: Thương quan đè Quan chắc lại thay đổi công việc? Em chưa đủ trình để luận năm này, bác cho em ý kiến với ạ, cảm ơn bác nhiều.
Thôi, như vậy cũng là hết sức với bạn rồi, nên yên tâm tu dưỡng thần khí, chớ vì chuyện Tài chính mà quá bạn tậm dễ phát sinh chứng suy nhược thần kinh đấy ( vì mộc chính là hệ thống thần kinh)
Tự dưng cuối năm 2014 đến giờ thỉnh thoảng em bị rối loạn tiền đình bác ạ, trước tới giờ chưa bị bao giờ, chắc do ông Ngọ hỏa hút khí của Ất mộc nên thế phải ko bác?
Nói thêm cho nvx77 yên tâm, Mệnh cung của bạn có Thiên Ất quý nhân ngụ, có Thái Dương tinh ở Thê cung đối chiếu mệnh cung. Thái Âm tinh ngụ ở Thân cung. Cung huynh đệ có Thiên Ất lâm, số nhờ anh em và vợ đấy
Nhà em có 1 cậu em trai và 1 cô em gái, lúc khó khăn thì cậu em trai giúp sức, cô em gái giúp $, đặc biệt là cô em gái giúp rất nhiều, bố mẹ cũng giúp đỡ nhiều. Từ lúc lấy vợ xong mọi việc tốt hơn trước nhiều.
2016: Thương quan đè Quan chắc lại thay đổi công việc? Em chưa đủ trình để luận năm này, bác cho em ý kiến với ạ, cảm ơn bác nhiều.
Không phải vậy, Tị hỏa hợp khắc Thân kim, nhưng không thấy thể hiện ra thiên can ( Tân hoặc Canh) thì không lo. Chế Sát thì càng tốt chứ sao? Sát là hung thần, nhớ là vậy. Nhất là mệnh nhược, không có Ấm hóa thì cần có Tỷ Kiếp sinh Thực thần chế Sát, đó là nguyên tắc sinh khắc ngũ hành.
Kính bác Lesoi
Em xin phép up lá số lên để dễ quan sát:
http://tubinhdieudung.net/attachment.php?attachmentid=214&stc=1
Kính bác Lesoi
Bác cho em hỏi chút:
1. Tứ trụ của em nhiều quý nhân thế này là phúc hay là họa? Em nghĩ chắc hay gặp họa nên mới cần quý nhân giúp đỡ, hi.
2. Không vong đóng ở trụ tháng và trụ giờ có làm mất đi tác dụng của các quý nhân đóng ở hai trụ này không ạ?
Em cảm ơn bác nhiều.
1. Tứ trụ của em nhiều quý nhân thế này là phúc hay là họa? Em nghĩ chắc hay gặp họa nên mới cần quý nhân giúp đỡ, hi.
2. Không vong đóng ở trụ tháng và trụ giờ có làm mất đi tác dụng của các quý nhân đóng ở hai trụ này không ạ?
Câu 1, đối với Nam nhân là phúc, có quý nhân phù trợ; đối với nữ nhân thì không tốt, vì có Quý nhân nhiều là có nhiều người theo đuổi, cộng với KV và Đào hoa lại càng nguy.
Câu 2, Trụ tháng KV gặp trụ năm Tỵ hợp Dậu, coi như tính chất KV không còn. Trụ giờ KV có giảm lực quý nhân, nhưng gặp vận Tỵ hợp tính KV cũng không còn hiệu lực.
Bạn tham khảo ở diễn đàn tôi có nói họa phúc khi có KV rồi.
Cho phép ThienKhanh hỏi bác Lesoi về ví dụ 3:
Ví dụ 3, Càn tạo: Giáp Thìn, Nhâm Thân, MẬU Tý, Nhâm Tý
Tạo này Mậu thổ sinh tháng Thân toạ Tý, lưỡng đầu thấu Nhâm, thuỷ cục Thân - Tý - Thìn - Nhâm lại gia thêm Tý. Hành vận Tây Bắc. Tạo này từ mệnh cục đến hành vận đều là Tây Thuỷ Triều Đông: thuỷ thế thao thao, lưỡng Nhâm hỗn thấu, càn khôn tràn đầy thuỷ khí. Mừng thuỷ này không kích động. Giáp niên trụ tuy nhược nhưng không tán, có thể tàng phong tụ khí (1 phần). Mậu này khả năng khống thuỷ không thể chối cãi, nhưng thành bại là một chuyện khác.
Nếu luận hàn âm, noãn dương, tạo này mãn bàn âm khí, Giáp Mậu dương khí lưỡng thấu cần cộng sinh làm quý. Mộc thổ nhị khí tương kiến tại Thân. Thân nguyệt kiến là cơ giam của toàn mệnh cục. Mệnh cục này quý khí tại thân cũng là không bàn cãi; đồng thời ngoại âm ôm nội dương, là người lòng dạ rộng rãi, chính phái, cũng không bàn cãi, nhưng rất nóng tính, phần trung chính của Mậu thổ không đủ.
Tuy nhiên hành vận Tây Bắc, địa khí âm hàn tuy thăng lên thành dương khí nhưng dương khí có tổn, là tượng quần âm công cô dương. Tuy dương khí liên miên, nhược mà không phá, nhưng vẫn là tổn, tụ mà không phát. Có thể tóm lại, cả mệnh cục và hành vận: âm cực dương sinh, tuy nhiên dương này bất khả trưởng.
Không biết vị họ Đặng này có thành tựu gì trong đời mà lại được gọi là vĩ nhân, tức đại quý? ThienKhanh thấy đây chỉ là tiểu quý mệnh, hàn sĩ thanh cao. Chữ tiên sinh còn đảm đương nổi, nhưng đại sĩ hay vĩ nhân cần xem lại.
@TKhanh:
VD 3, là mệnh tạo của Đặng Tiểu Bình nguyên thủ quốc gia của TQ, trên là cách luận của bạn suy diễn theo ý của mình mà thôi. Theo tôi, ý của tác giả nói Mậu ký gửi ở thủy, cùng Nhâm thủy hòa quyện vào nhau cùng ở đất trường sinh ( nguyệt lệnh Thân kim), Mậu thổ đứng vững vàng như Thái sơn Bắc đầu. Toàn cục thủy khí sinh Giáp mộc, khiến cho khí tụ mà không tán. Toàn cục vận hành từ kim đến đất thủy, cho nên khí tụ quần anh, khiến cho trở thành một vị danh nhân anh hùng. Tôi nghĩ luận theo khí thế như vậy là đúng. Còn bạn nói vận hành Tây thủy triều Đông, theo tôi câu này là kim thủy hướng đông, đều tốt chứ sao?
À, cám ơn bác Lesoi. Ra đây là nói bát tự của ông Đặng Tiểu Bình.
Theo TK, tác giả luận như vậy còn có sơ hở. Vượng khí tới mộc tụ mà không tán là đúng. Nhưng Mậu có dụng được khí tụ tại huyệt này hay không lại là 1 chuyện khác. Dụng được thì quý, không dụng được thì tiện. Khí có sinh có bại, sinh khí tụ thì quí, bại khí tụ thì tiện.
Đối với 1 mệnh cục bất lợi cho nhật chủ quá rõ ràng như vậy mà lại gọt thành đại quý mệnh, TK nghĩ là phải cẩn thận và công tâm xem lại cách luận của tác giả, hoặc là xem lại bát tự này có chính xác chưa. Luận khí tượng dù cho có thâm ảo, cũng không nên đưa ra 1 kết quả quá xa rời so với cách luận hình xung khắc hợp cơ bản (nếu luận đúng). Vì nói cho cùng, khí tượng cũng từ ngũ hành tương tác với nhau mà ra.
Mệnh cục này dù cho về mặt khí tượng, Mậu có dụng được vượng khí tụ tại huyệt Giáp, cũng là cái tượng hữu khí mà không hữu hình. Tức có khí mà không có tượng.
Còn về Tây thuỷ triều đông là từ của Trích Thiên Tuỷ, không phải từ của TK.
Còn về Tây thuỷ triều đông là từ của Trích Thiên Tuỷ, không phải từ của TK.
Vậy bạn đã đọc thông TTT rồi còn gì, ở phần luận Khí tượng này, theo tôi chẳng qua cũng chỉ là luận theo chương Nguyên lưu mà thôi. Cũng ngụ ý từ khí vượng nhất mà chảy đến chỗ khí thấp nhất, dừng lại. Chỗ khí này cũng chính là quý khí, cũng không có gì gọi là miễn cưỡng cả.
Luận về tượng hình, thì rõ rồi còn gì, Nhâm thủy tượng uông dương, Mậu thổ là tượng đê bao, Giáp mộc tượng cây nhiều, to, dày. Có thủy, có đê, có cây để giữ cũng có nghĩa là Khí và Tượng rồi. Theo tôi hiểu từ Khí Tượng ở đây là tác giả đã nêu rõ Khí ( can), tượng ( chất) đầy đủ rồi.
Tất nhiên, luận mệnh bao giờ cũng vậy, ai cũng có tính chủ quan trong đó, giống như Nhậm Thiết Tiều chê bai nguyên chú luận Lục thân vậy thôi.
Thái Tích Quỳnh là đại đệ tử của Bành Khang Dân tiên sinh, hiện đang là người lập diễn đàn luận mệnh và dạy học trò ở TQ, chỗ bài này tôi lấy từ diễn đàn của ông ấy. Thiết nghĩ không thể nào người dân TQ mà không biết Đặng Tiểu Bình như thế nào. Ông còn luận dẫn mệnh Tưởng Giới Thạch ở quyển sách " Huyền Quan Nhất khiếu".
Đúng. Chính vì tác giả luận Khí Tượng lại dùng Nguyên Lưu, nên TK mới nói là chưa đủ, còn có sơ hở khá lớn. Nguyên Lưu chỉ là 1 phần của Khí Tượng hoặc Khí Thế, nếu đánh đồng các khái niệm Nguyên Lưu = Khí Tượng hoặc Nguyên Lưu = Khí Thế, sẽ không tốt cho những hậu sinh mới học như TK, vì đơn giản là điều đó không đúng.
Vì khí tượng và khí thế hiện vẫn còn là vấn đề bí truyền, nên việc có những nhận định khác nhau về quý khí là có thể hiểu được. Tuy nhiên, việc ông Thái Tích Quỳnh luận bát tự của ông Đặng Tiểu Bình bằng Nguyên Lưu mà lại nói là dùng Khí Thế / Khí Tương là không công tâm, và chưa thể hiện trách nhiệm của 1 người thầy đi dạy. Đó là điều TK muốn chỉ ra, dù cho ông Thái Tích Quỳnh đó là ai thì qua cách luận của ông ấy TK đều nhận định như vậy.
Còn về việc người dân TQ có biết ông Đặng Tiểu Bình như thế nào hay không, thú thật với bác khi biết đây là nói về bát tự của ông Đặng, TK đã đi tìm hiểu và được biết hiện nay có nguồn cho rằng giờ sinh của ông Đặng Tiểu Bình là Giáp Dần, và điều này không phải là không có cơ sở.
Nếu luận giờ Giáp Dần thì địa khí thăng lên, thiên khí giáng xuống, mộc thổ cộng sinh cùng tụ tại huyệt Dần, lưỡng đầu thấu Giáp. Đây mới là mệnh đại quý, không sợ thuỷ hoả kim thổ mộc; vì trừ những trường hợp đặc biệt, ngũ hành niên vận khó mà phá nổi nguyên lưu này. Còn luận tại sao mộc thổ không cần hoả vẫn có thể cộng sinh đảm bảo khí lưu vẫn thông suốt, thì phần này TK xin phép giữ lại.
Cho nên TK có suy nghĩ ông Quỳnh Tích Dịch đã chọn không đúng giờ sinh và đã gọt lại cho vừa. Đối với lá số giờ Nhâm Tý, dù cho luận kiểu gì thì cũng không phải là lá số đại quý, và nếu luận là đại quý, sẽ không thấy được tác động của hành vận đối với mệnh cục này để tạo ra sự thăng trầm 3 lần trong sự nghiệp. Trong trường hợp này dùng thuần tuý ngũ hành sinh khắc chế hoá là thấy rõ nhất điểm chưa logic.
Ngoài ra luận Khí Tượng, Mậu ở đây "kí gửi ở thuỷ" nói trắng ra là không phải kí gửi gì cả, mà là dùng thuật Phi Cung Nhập Mệnh để luận. Lúc đó mới thấy Mậu khống thuỷ, còn khái niệm "kí gửi" thì chưa thấy sách nào nhắc đến.
Nói tóm lại, ông Thái Tích Quỳnh luận phần này là không công tâm, lớp hậu sinh mới vừa "cảm" được cánh cửa khí tượng như TK khi xem cần cẩn thận và minh xét lại hệ thống lí luận của bản thân trước khi hấp thu lí luận của ông này. Thà là không luận, luận mà lại đánh đồng các khái niệm khác nhau như vậy mà lại cho người khác học là không nên.
Cuối cùng, TK chỉ nói lại là TK không có ý bảo ông Thái Tích Quỳnh trình độ Tử Bình kém. Mà TK nói ông ấy không đủ công tâm, khi đọc các bài luận của ông cần phải chú ý.
Theo tôi thì đọc sách lấy ý không chấp lời.
Mọi người đều nói Nguyên lưu, xin được hỏi thêm vậy rất cuộc Nguyên lưu được hiểu như thế nào ?
Nhâm thị bình: Nguyên thần, tức là vượng thần trong tứ trụ, bất luận Tài, Quan Ấn thụ, Thực Thương, Tỉ Kiếp, đều có thể là nguyên đầu vậy. Chung quy lưu thông sinh hóa, cục nhận được đẹp là tốt.
+ Hoặc khởi ở Tỉ Kiếp, dừng ở Tài Quan là hỉ;
+ Hoặc khởi ở Tài Quan, dừng ở Tỉ Kiếp là nhớ kỵ.
....................
Xem thần nào cản trở, để luận lúc nào cát lúc nào hung.
+ Như nguyên đầu khởi ở năm tháng là Thực Ấn, ở trụ ngày giờ là Tài Quan, thì ở trên nhận được che chở của tổ tiên, dưới hưởng phúc con cháu;
+ Hoặc khởi phát tại năm tháng là quan, trong trụ ngày giờ là thương kiếp, tất tổ phụ rách nát, hình thê khắc tử. Nếu như khởi tại ngày giờ là tài quan, trong trụ năm tháng là thực ấn, tất trên tổ phụ vẻ vang, dưới con cháu tạo dựng sự nghiệp;
+ Hoặc khởi ở năm tháng là Quan, ở trụ ngày giờ là Thương Kiếp, thì phá bại tổ nghiệp, hình thê khắc tử. Như khởi ở ngày đúng là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thực Ấn, thì ở trên tổ tiên là vinh quang, ở dưới cùng con cháu lập nghiệp.
+ Hoặc khởi ở ngày giờ là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thương Kiếp, thì khó hưởng tổ nghiệp, tự nghĩ ra đổi mới. Trụ năm chảy là Quan Ấn, biết tổ thượng là thanh cao; là Thương Kiếp, thì biết tổ tiên nghèo hèn. Trụ tháng chảy là Tài Quan, cho biết cha mẹ lập nghiệp; là Thương động, biết cha mẹ là phá bại. Trụ ngày giờ là Tài Quan Thực Ấn, tất là tay trắng lập nghiệp, hoặc là vợ hiền con quý. Trụ ngày giờ chảy là Thương Kiếp Kiêu Nhận, tất vợ xấu con kém, hoặc là vì vợ mà gây họa, phá gia chịu nhục. Nhưng phải xem nhật chủ hỉ kỵ mà suy đoán, không lúc nào không nghiệm vậy.
Nhâm thị bình như vậy về tinh thần đã đúng với nguyên chú chưa ?
Xưa nay nói Nguyên lưu nhiều mà chưa thấy có lời giải thích cặn kẽ, mong được lắng tai nghe sự lý giải từ mọi người.
-Tứ trụ này Thân thái nhược dụng giáp.
-Về nguyên lưu thì dòng khí khởi đi từ Mậu -kim-thủy và dừng ở giáp.
Giáp, cả 2 trường hợp trên đều chưa đủ khí nên phải chờ đến vận phương đông mới tụ khí vững chắc.
Kính bác Lesoi
Càn tạo: Đinh Tỵ- Kỷ Dậu- Ất Hợi- Ất Dậu
Kỷ Dậu- Mậu Thân- Đinh Mùi- Bính Ngọ- Ất Tị- Giáp Thìn- Quý Mão- Nhâm Dần
Luận mệnh theo khí thế: theo dòng ngũ hành Đinh hỏa ở can năm sinh Kỷ thổ can tháng, Kỷ thổ lại sinh cho Dậu kim chi tháng/giờ, Dậu kim chi tháng/giờ sinh cho Hợi thủy ở chi ngày, Hợi thủy sinh Ất mộc can ngày/ giờ. Có thể thấy khí của ngũ hành ngưng tại Ất Mộc, nhưng vì Hợi thủy bị Tỵ hỏa trụ năm xung nên không hấp thụ được hết nguyên khí của Kim tại trụ tháng/ giờ, vì thế Ất mộc chỉ hưởng được một phần khí của Hợi thủy, dư khí của Dậu kim không được Hợi thủy hóa hết xông lên công chiến Ất mộc làm cho bản Ất mộc bị tổn thương, Canh kim tàng trong chi năm cũng không được hóa thủy nên tìm Giáp mộc tàng trong Hợi để chiến, vào vận niên thích hợp sẽ làm cho Giáp bị tổn thương. Năm 1997 đương số bị cái quạt trần chém vào đầu phải vào viện khâu mất 5 mũi.
Tập luận một đoạn nhỏ rất mong được bác góp ý để em học hỏi thêm, cảm ơn bác nhiều.
Nói chung bạn luận theo khí thế phải bắt nguồn từ địa chi trong tứ trụ. Nhưng câu trên theo tôi là chưa trôi, vì Tỵ Dậu là hơp rồi.
1. Có thể xem khí của bát tự này khởi đầu tại Tị ==> Đinh==> Kỷ==> Dậu==> Hợi==> Ất?
2. Tị đóng trụ năm tượng là ông bà tổ tiên do vậy khí của bát tự này khởi từ tổ khí của gia tộc (đương số là cháu đích tôn của dòng họ, thật là hữu tình?). Tổ phụ trước là địa chủ nhờ có nghề thuốc gia truyền, trong họ có người làm quan lớn triều Nguyễn, trải qua thăng trầm của lịch sử con cháu suy vi nhưng vẫn giữ được cốt cách của tổ tiên.
3. Huyệt của bát tự này nằm ở Hợi (Ấn), tượng là mẹ- vợ- học thức, xét ở nguyên cục thì Hợi được 2 Dậu tại trụ tháng và trụ giờ sinh dễ thành cách Kim sinh thủy mà kim nhiều thì thủy trọc, mừng là Dậu trụ tháng bị Tị trụ năm hợp khắc nên lực kim không còn nhiều vì thế có thể xem Ấn thụ thông suốt, Sát Ấn tương sinh? Mặc dù Hợi thủy ẩn dưới địa chi không sợ Kỷ thổ khắc (một phần vì Kỷ mải sinh Dậu nên quên khắc Hợi?) nhưng dù sao vẫn bị ảnh hưởng phần nào? Đương số từ nhỏ đã thông minh học giỏi luôn đứng đầu lớp đầu trường nhưng ko ham học (do Ấn bị pha tạp hay do hành vận kị thần?), thi cử không đạt được kết quả tương xứng với học lực, được cái thi đâu đỗ đấy. Có lần đi xem bói thầy bói phán muốn có sự nghiệp thì phải có vợ đã, nghiệm lại thấy cũng đúng.
4. Vận Ất Tị: Tị đại vận xung Hợi làm Ấn thủy khô cạn không dẫn hóa được Dậu kim nên bị Dậu (Sát) xông lên hại thân?
Rất mong được bác chỉ bảo, cảm ơn bác nhiều.
Theo tôi thì đọc sách lấy ý không chấp lời.
Mọi người đều nói Nguyên lưu, xin được hỏi thêm vậy rất cuộc Nguyên lưu được hiểu như thế nào ?
Nhâm thị bình: [...]
Nhâm thị bình như vậy về tinh thần đã đúng với nguyên chú chưa ?
Xưa nay nói Nguyên lưu nhiều mà chưa thấy có lời giải thích cặn kẽ, [...].
Hỏi mấy cái này thì khó ai nói cặn kẽ rồi, vì...tại sao người ta phải nói cặn kẽ cho mình nghiên cứu vậy? Phải cho người ta 1 lí do chứ. :D
TK không thể nói hết những gì TK nghĩ là TK biết. Có điều anh/chị DND đã nhìn đến mối quan hệ của nguyên lưu và tinh thần, vậy TK xin phép trích dẫn nguyên văn 1 số phần có liên quan trong Trích Thiên Tuỷ, hi vọng anh/chị có cảm hứng riêng để dung nhập vào hệ thống lí luận của mình. Còn nếu anh/chị đã hiểu rõ và hiểu hơn những gì TK trích dẫn thì xem như đọc chơi cho vui.
TK dùng bản Trích Thiên Tuỷ của nhà xuất bản Hồng Đức, bản in năm 2014.
(1) Mối quan hệ của nguyên lưu và tinh thần:
"Tinh thần, là KHÍ CHẤT NỘI TẠI của mệnh cục, không có dấu vết để tìm, mà chủ yếu là về cảm giác hoặc sự LĨNH NGỘ [...] Tinh thần xuất mà phối hợp, như phần can chi đã nói 'thiên địa thuận toại, mà tinh tuý xương', 'thuận toại', 'tinh tuý' tức là tinh thần. DỤNG THẦN có tình, vô tình, hữu lực, vô lực, cùng với can chi sắp xếp trước sau, sự thích hợp của nóng, lạnh, khô, ẩm, đều là nơi tinh thần tá túc, nên không thể phân đâu là tinh, đâu là khí, đâu là thần. Như phần tiếp theo có NGUYÊN LƯU, THANH TRỌC, CHÂN GIẢ,... đều là tinh thần có hay không" [Quyển 2, trang 26-27]
Tóm lại: Tinh Thần theo Từ Lạc Ngô là để chỉ khí chất của 1 mệnh cục. Như vậy luận thuận toại, tinh tuý, dụng thần, hữu tình, khí hậu, nguyên lưu, thanh trọc, chân giả, ... đều là đang luận Tinh Thần. Tinh Thần là tuỳ theo sự cảm giác hoặc lĩnh ngộ của từng người, tức là mỗi người tuỳ theo sở học và hệ thống lí luận của mình mà luận Tinh Thần là gì. Ví dụ: người giỏi luận thuần tuý hình xung khắc hại của ngũ hành, thì Tinh Thần xoay xung quanh vấn đề sử dụng dụng thần. Trong khi đó, người giỏi luận hình tượng thì Tinh Thần nằm ở vấn đề tụ khí. Tuỳ từng trường hợp mà định Tinh Thần cho thích hợp.
(2) Nguyên lưu là gì?
"Không cần luận đương lệnh hay không đương lệnh, chỉ luận chọn nhiều nhất, vượng nhất, mà có thể trở thành ông tổ của toàn cục, là đầu nguồn. xem đầu nguồn đó CHẢY tới phương nào, CHẢY khỏi phương nào [...] Đầu nguồn, là vượng thần trong tứ trụ; bất luận là tài, quan, ấn thụ, thực thương, tỷ kiếp, đều có thể là đầu nguồn. Nhưng luôn cần LƯU THÔNG SINH HOÁ, THU CỤC ĐẮC MỸ là tốt nhất." [Quyển 2, trang 71-72]
Nguyên lưu: dòng (vượng) khí chảy trong mệnh cục. Đầu nguồn = vượng thần. Chảy = lưu thông bằng quá trình sinh hoá. "Thu cục" không chưa đủ mà phải "đắc mỹ" (được cái tốt đẹp).
(3) Nhâm thị bình Tinh Thần có đúng với nguyên chú chưa?
Ở phần nguyên lưu, Nhâm thị dùng từ "nguyên thần", chứ không phải "tinh thần". Nguyên chú đã viết rất rõ: tinh thần tức tinh khí và thần khí. Thần trong "tinh thần" là thần khí, chứ không phải nguyên thần. Đây là 2 khái niệm khác nhau.
Vậy theo TKhanh, Bành Thị giải thích chỗ này bạn thấy thế nào?
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?949-Ch%C3%BA-gi%E1%BA%A3i-ch%C6%B0%C6%A1ng-19-Tr%C3%ADch-Thi%C3%AAn-T%E1%BB%A7y-Nguy%C3%AAn-L%C6%B0u-%28B%C3%A0nh-Khang-D%C3%A2n%29
Vậy theo TKhanh, Bành Thị giải thích chỗ này bạn thấy thế nào?
http://tubinhdieudung.net/showthread.php?949-Ch%C3%BA-gi%E1%BA%A3i-ch%C6%B0%C6%A1ng-19-Tr%C3%ADch-Thi%C3%AAn-T%E1%BB%A7y-Nguy%C3%AAn-L%C6%B0u-%28B%C3%A0nh-Khang-D%C3%A2n%29
Ông Bành viết chỗ này quá đầy đủ và có tâm. Hầu như nhiều vấn đề được xem như "bí pháp" đều có đả động đến; vấn đề là người đọc có cảm nhận / nhận ra được hay không.
--TK chỉ thấy có 1 số chỗ có thể bổ sung theo cách nhìn cá nhân của bản thân. Ví dụ như:
(1) "Cho nên Manh nhân chúng ta đoán mệnh phần đa trước tiên là đếm số ngũ hành, lại kiêm nhìn Nguyệt lệnh thì không có khó nhìn ra Nguyên đầu".
Xác định nguyên đầu kiểu này thuận tiện nhưng chưa chính xác trong một số trường hợp.
(2) " Ngũ hành lưu chuyển tương sinh, gọi là hữu tình. [...] Thầy đáp: Ngũ hành tương sinh tức là lưu chuyển, không tiếp tục sinh tất là chỗ dừng."
Chỉ luận tương sinh không chưa đủ.
(3) "Bát tự khắp nơi đều là huyền cơ, nhưng chỗ dừng lại là huyền cơ lớn nhất".
Trong 1 vài trường hợp, qui túc không phải là cơ giam của mệnh cục. Cho nên khẳng định qui túc là "huyền cơ lớn nhất" là chưa thích hợp cho mọi trường hợp.
--Bản bình chú của Bành Thị có giá trị cao ở 1 số điểm:
(4) "Nhưng mà vượng khí không phải là một chữ địa chi Nguyệt lệnh là có thể xác định được, chẳng phải là đã nghe Đắc lệnh bất vượng, Thất thời bất suy hay sao?"
(5) "Ngũ hành đã có Nguyên đầu, cũng có chỗ dừng, LẠI CÒN CÓ CON ĐƯỜNG TRUNG GIAN"
(6) "Chỗ dừng Ngũ hành mà THÀNH HÌNH, thành tượng, tất có quý khí, hình tượng to lớn, là ở tầng thứ cao. Chỗ dừng Ngũ hành gặp hình xung khí tán, tự nhiên hình tượng phá tổn, khó mà có phú quý"
(7) "Chỗ dừng ở năm tháng mà thành hình, thì tổ thượng cùng gia đình phát vượng, chỗ dừng ở ngày giờ mà thành hình, tất là tay trắng lập nghiệp hoặc là con cái phát đạt. Chỗ dừng là Tài, thân chủ phải vượng mà có thể đảm nhận, ít nhất là cũng có lấy phú, chỗ dừng là Quan, phải cùng nhật chủ là có tình, tương sinh tương hợp, phú quý vị cao cũng có chia cho ta một chén canh để ăn"
Ông Bành tự nhận là manh phái, nhưng cái nhìn lại toàn diện trên nhiều khía cạnh, có hệ thống lí luận biện chứng rất chặt chẽ, chứ không rơi vào con đường "giang hồ thuật sĩ" như 1 số người tự nhận là manh phái khác. Đáng trọng.
Không biết bản Trích Thiên Tuỷ có Bành thị chú giải có bán trên thị trường không vậy bác Lesoi? TK học Tử Bình thời gian quá ngắn, nên không tập hợp đủ những tài liệu có giá trị. Cám ơn bác.
Không biết bản Trích Thiên Tuỷ có Bành thị chú giải có bán trên thị trường không vậy bác Lesoi? TK học Tử Bình thời gian quá ngắn, nên không tập hợp đủ những tài liệu có giá trị. Cám ơn bác.
Tôi biết bạn là người có thực học chứ không phải là người học qua loa đại khái. Trên là tài liệu dạy học trên diễn đàn của Thái Tích Quỳnh tiên sinh, nó rơi rớt luận mệnh ở nhiều trang khác nhau. VD sách "Mệnh lý tinh hoa" của Bành Khang Dân lão sư thì không có ở trang web của họ Thái, mà ở một trang khác. Ở diễn đàn này cũng đã dịch ở mục Manh phái, bạn có thể tham khảo thêm, còn trích luận giải vể Trích Thiên tuỷ của Bành Thị tôi đã có post lên ở mục Bàn luận tổng quát, bạn có thể tham khảo thêm.
Bạn nhận định thật đúng tư cách luận mệnh của Bành Thị, ông ấy đích thực là luận mệnh theo " Truyền thống phái", chứ không theo " Giang hồ phái".
Còn nữa, đây là sách tổng hợp "Bát tự danh nhân", bạn sẽ biết Đặng Tiểu Bình sinh giờ nào là đúng? ( nếu bạn biết tiếng Hoa)
Link: http://blog.sina.com.cn/s/blog_64926dcf0100uthz.html
(http://blog.sina.com.cn/s/blog_64926dcf0100uthz.html)
Hỏi mấy cái này thì khó ai nói cặn kẽ rồi, vì...tại sao người ta phải nói cặn kẽ cho mình nghiên cứu vậy? Phải cho người ta 1 lí do chứ. :D
TK không thể nói hết những gì TK nghĩ là TK biết. Có điều anh/chị DND đã nhìn đến mối quan hệ của nguyên lưu và tinh thần, vậy TK xin phép trích dẫn nguyên văn 1 số phần có liên quan trong Trích Thiên Tuỷ, hi vọng anh/chị có cảm hứng riêng để dung nhập vào hệ thống lí luận của mình. Còn nếu anh/chị đã hiểu rõ và hiểu hơn những gì TK trích dẫn thì xem như đọc chơi cho vui.
Bạn TKhanh hiểu sai ý tôi, tôi chỉ muốn hỏi tinh thần bình chú của Nhậm thị có đúng với Nguyên chú không ? chứ không đề cập đến chương Tinh thần.
Vì sao tôi lại muốn tìm hiểu về Nguyên lưu ? Lật lại một số mess ở topic này:
#20
Thái tiên sinh mang danh là viết ra nhưng thực ra trong sách đã có cả, chẳng hạn chương Nguyên Lưu của Trích Thiên Tủy. Bạn có thể đọc lại ngoài diễn đàn.
#60
Vậy bạn đã đọc thông TTT rồi còn gì, ở phần luận Khí tượng này, theo tôi chẳng qua cũng chỉ là luận theo chương Nguyên lưu mà thôi. Cũng ngụ ý từ khí vượng nhất mà chảy đến chỗ khí thấp nhất, dừng lại. Chỗ khí này cũng chính là quý khí, cũng không có gì gọi là miễn cưỡng cả.
thì dường như các bác lesoi và thiếu bá đều có những hiểu biết về chương Nguyên lưu. Đó là lý do người mới nghiên cứu như tôi đặt câu hỏi.
Phần bạn trích dẫn đúng là đọc chơi cho vui, tôi không đánh giá cao các sách Tử bình dịch ra tiếng việt như uyên hải, tam mệnh, cùng thông bảo giám, trích thiên tủy bởi đơn giản dịch giả quá tồi về cả dịch thuật và hiểu biết về tử bình, dịch thiếu tôn trọng độc giả.
Mong Tkhanh có thể chia sẻ những hiểu biết về nguyên lưu, tôi rất mong.
[...] Trên là tài liệu dạy học trên diễn đàn của Thái Tích Quỳnh tiên sinh, nó rơi rớt luận mệnh ở nhiều trang khác nhau. VD sách "Mệnh lý tinh hoa" của Bành Khang Dân lão sư thì không có ở trang web của họ Thái, mà ở một trang khác. Ở diễn đàn này cũng đã dịch ở mục Manh phái, bạn có thể tham khảo thêm, còn trích luận giải vể Trích Thiên tuỷ của Bành Thị tôi đã có post lên ở mục Bàn luận tổng quát, bạn có thể tham khảo thêm.
[...]
Còn nữa, đây là sách tổng hợp "Bát tự danh nhân", bạn sẽ biết Đặng Tiểu Bình sinh giờ nào là đúng? ( nếu bạn biết tiếng Hoa)
Link: http://blog.sina.com.cn/s/blog_64926dcf0100uthz.html
(http://blog.sina.com.cn/s/blog_64926dcf0100uthz.html)
Cám ơn tài liệu của bác Lesoi. Nếu có sách bán trên thị trường thì quá tốt, nếu không có thì TK sẽ copy rồi in ra đọc từ từ. Khi nào có bản in hợp nhất, TK sẽ quay lại đăng lên cho mọi người tiện đọc.
Về bát tự ông Đặng Tiểu Bình, TK có nhìn qua các trang mạng tiếng Hoa thì phần lớn dùng giờ Tý, nhưng cũng có trang dùng giờ Sửu, và cả giờ Mão. Tuy nhiên, TK vẫn cho là giờ Tý không đủ để đại quý. Đối với giờ Tý, việc nhất thấu Giáp mặc dù tụ khí, chuyển hoá âm dương nhưng đối với khả năng khống thuỷ của Mậu có tổn. Tiểu quý có dư, nhưng đại quý lại không đến.
Còn giờ Dần thì TK có đọc 1 trang mạng tiếng Việt, chứ không phải tiếng Hoa.
Bạn TKhanh hiểu sai ý tôi, tôi chỉ muốn hỏi tinh thần bình chú của Nhậm thị có đúng với Nguyên chú không ? chứ không đề cập đến chương Tinh thần.
Việc đánh giá bình chú của Nhâm thị trên cả quyển sách TK không làm nổi vì kiến thức hạn hẹp, không có bản tiếng Hoa, cũng như tiếng Hoa của TK yếu, đọc rất chậm.
Đó là lý do người mới nghiên cứu như tôi đặt câu hỏi.
TK cũng là người mới thôi, học Tử Bình được 2 năm.
Phần bạn trích dẫn đúng là đọc chơi cho vui, tôi không đánh giá cao các sách Tử bình dịch ra tiếng việt như uyên hải, tam mệnh, cùng thông bảo giám, trích thiên tủy bởi đơn giản dịch giả quá tồi về cả dịch thuật và hiểu biết về tử bình, dịch thiếu tôn trọng độc giả.
Mong Tkhanh có thể chia sẻ những hiểu biết về nguyên lưu, tôi rất mong.
Mấy bài post phía trên đã tóm tắt hầu như đầy đủ suy nghĩ của TK về nguyên lưu. Để dễ theo dõi, TK tóm tắt lại thêm 1 lần nữa vậy. Xem như bác Lesoi nhóm lửa thì TK góp chút gió. Phần này cũng đọc cho vui là chính :)
Nguyên lưu: dòng khí di chuyển trong mệnh cục. Đây có thể được xem như tiên thiên quý khí.
Nguyên lưu gồm có 3 phần chính: nguyên đầu/đầu nguồn, dòng khí/khí lưu, và qui túc/nơi tụ khí. Dòng khí sẽ chảy từ đầu nguồn, đi xuyên qua khí lưu và cuối cùng về nơi qui túc, cũng là nơi tụ khí.
Do nguyên lưu bao gồm 3 bộ phận, nên muốn biết cát hung, cần phải luận cát hung của 3 bộ phận này: đó là cát hung của nguyên đầu, khí lưu, và huyệt tụ khí.
Để luận cát hung của 3 bộ phần này cần sử dụng những kiến thức sau:
(1) Ngũ hành chính phản
(2) Hỷ kỵ, sinh bại
(3) Tụ tán
(4) Khí hậu, thôi khí (dùng tên nghe cho nó Hường Công là Thông Thiên Kiều)
(5) Cơ giam
Mục đích cuối cùng là để đánh giá được nguyên lưu này dài hay ngắn, mỏng hay bền, hữu dụng hay không hữu dụng. Điều này rất quan trọng khi đánh giá cát hung của hành vận. Thực chất có những người đến hành vận gặp kỵ thần triều nguyên, nhưng vẫn bình an vô sự, chỉ có khó khăn nhỏ, là do cái phúc của nguyên lưu.
Trong phần này, TK còn sử dụng thêm các kiến thức khác, ví dụ như:
(6) Phi cung nhập mệnh
(7) Ngũ hành minh ám
(8) Tinh Khí Thần
Như mệnh ông Đặng Tiểu Bình giờ Tý, TK dùng Phi Cung luận Mậu khống thuỷ. Không phải Mậu nào cũng có thể khống thuỷ, cũng không phải Kỷ nào cũng bại bởi cường thuỷ. Còn quý khí tới Mậu bị tổn, TK dùng minh ám để luận mối quan hệ giữa Mậu và Giáp. Ở đây Mậu tổn khí không phải do Giáp khắc Mậu mà là do thổ khí ám triều mộc khí.
Cái nhìn của TK về nguyên lưu có khác với phần nguyên lưu trong Trích Thiên Tuỷ được ông Nhâm Thiết Tiều bình chú ở những điểm:
(a) Ngũ hành chính phản
(b) Hỷ kỵ
(c) Thôi khí
(d) Cơ Giam
Khác với ông Bành Khang Dân những điểm: (a), (c), (d).
Ở điểm (a), hai ông Nhâm và Bành đều sử dụng hoá sinh để lưu thông. Nhưng TK cho là không đủ. Không chỉ có thuận hành mới lưu thông, mà nghịch hành cũng có thể lưu thông. Cho nên luận nguyên lưu có lưu thông hay không, phải dùng ngũ hành chính phản mới đủ bộ. Dĩ nhiên phản cục cần có điều kiện.
Ở điểm (b), ông Bành đã giải thích quá rõ.
Phần 6, 7, 8, c, d, TK xin phép không giải thích thêm.
Tuy nhiên kinh nghiệm của TK là nếu duyên chưa tới, chưa cảm được nguyên lưu thì không nên để tâm làm gì, vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc chọn dụng thần bằng ngũ hành sinh khắc chế hoá thuần tuý. TK cũng từng bị vây ở phần nguyên lưu này cả tháng trời, phải buông bỏ 1 thời gian rồi mới đưa nó vào hệ thống lí luận được (đến giờ vẫn tiếp tục xác minh xem đúng hay sai).
Nguyên lưu, kiến thức áp dụng thì mênh mông, nhưng cảm được thì chỉ luận trong vài dòng. Và nó cũng không phải bá chủ. Nếu luận ngũ chế hoá thuần tuý nhưng lại thành thạo, lí luận ngũ hành cao, thì vẫn xem mệnh tốt như thường.
Việc dùng thuần tuý Khí Tượng để luận mệnh, TK không làm được.
Cám ơn tài liệu của bác Lesoi. Nếu có sách bán trên thị trường thì quá tốt, nếu không có thì TK sẽ copy rồi in ra đọc từ từ. Khi nào có bản in hợp nhất, TK sẽ quay lại đăng lên cho mọi người tiện đọc.
Về bát tự ông Đặng Tiểu Bình, TK có nhìn qua các trang mạng tiếng Hoa thì phần lớn dùng giờ Tý, nhưng cũng có trang dùng giờ Sửu, và cả giờ Mão. Tuy nhiên, TK vẫn cho là giờ Tý không đủ để đại quý. Đối với giờ Tý, việc nhất thấu Giáp mặc dù tụ khí, chuyển hoá âm dương nhưng đối với khả năng khống thuỷ của Mậu có tổn. Tiểu quý có dư, nhưng đại quý lại không đến.
+ không bao giờ có trên thị trường VN, vì đó là diễn đàn của người Hoa.
+ Bạn luận như câu sau vào giờ Tý, tôi e rằng quá khiên cưỡng và chủ quan đấy ! :emoticon-0115-inlov
(4) Khí hậu, thôi khí (dùng tên nghe cho nó Hường Công là Thông Thiên Kiều)
(5) Cơ giam
Theo bạn hai câu này như thế nào?
Tôi chưa đọc TTT qua tài liệu tiếng Việt ở thị trường VN, vì đã lâu tôi đã không dùng sách của người Việt dịch. Trong tủ sách của tôi, cũng có mệnh lý Tử Bình tính bằng bạc triệu rồi, cũng đã lâu tôi bỏ qua một bên vì có nhiều lý do khác nhau. Sau này, tôi chỉ dùng sách do mình dịch thuật từ các trang web của TQ.
Ở điểm (b), ông Bành đã giải thích quá rõ.
Phần 6, 7, 8, c, d, TK xin phép không giải thích thêm.
Mấy câu này tôi đã thấy lời bình của bạn ở phần trên rồi, nhưng tôi không trả lời, vì đó cũng chỉ là ý của bạn.
Cuối cùng, cốt lõi vấn đề ở đây ý tôi muốn nói là dù có đọc đến vạn sách, áp dụng không phù hợp với thực tế thì cũng bằng con số 0. Nói cho cùng, đáp án vẫn là luận mệnh đúng hay sai mà thôi!
Để luận cát hung của 3 bộ phần này cần sử dụng những kiến thức sau:
(1) Ngũ hành chính phản
(2) Hỷ kỵ, sinh bại
(3) Tụ tán
(4) Khí hậu, thôi khí (dùng tên nghe cho nó Hường Công là Thông Thiên Kiều)
(5) Cơ giam
Mục đích cuối cùng là để đánh giá được nguyên lưu này dài hay ngắn, mỏng hay bền, hữu dụng hay không hữu dụng. Điều này rất quan trọng khi đánh giá cát hung của hành vận. Thực chất có những người đến hành vận gặp kỵ thần triều nguyên, nhưng vẫn bình an vô sự, chỉ có khó khăn nhỏ, là do cái phúc của nguyên lưu.
Trong phần này, TK còn sử dụng thêm các kiến thức khác, ví dụ như:
(6) Phi cung nhập mệnh
(7) Ngũ hành minh ám
(8) Tinh Khí Thần
Như mệnh ông Đặng Tiểu Bình giờ Tý, TK dùng Phi Cung luận Mậu khống thuỷ. Không phải Mậu nào cũng có thể khống thuỷ, cũng không phải Kỷ nào cũng bại bởi cường thuỷ. Còn quý khí tới Mậu bị tổn, TK dùng minh ám để luận mối quan hệ giữa Mậu và Giáp. Ở đây Mậu tổn khí không phải do Giáp khắc Mậu mà là do thổ khí ám triều mộc khí.
Cái nhìn của TK về nguyên lưu có khác với phần nguyên lưu trong Trích Thiên Tuỷ được ông Nhâm Thiết Tiều bình chú ở những điểm:
(a) Ngũ hành chính phản
(b) Hỷ kỵ
(c) Thôi khí
(d) Cơ Giam
Tôi quả thật học mệnh cũng không lâu, nhưng tôi cũng chưa từng nghe những thuyết ở trên, nhất là (4),(5) và (6) còn các câu khác không chỉ là luận nguyên lưu, mà nó luận bao quát hết tất cả những thuật mệnh. Tôi dịch thuật không nhiều nhưng ít nhất cũng gần 7 quyển sách mệnh từ kinh điển cho đến hiện đại, nhưng thuật ngữ dùng "Phi tinh nhập mệnh" giống như là kỳ môn độn giáp, còn "thôi khí", "cơ giam" không biết là dịch từ ở đâu, ý nghĩa ra sao tôi chưa hề nghe qua. Đang nói "nguyên lưu", bạn lại nói hệ thống luận mệnh.
Nguyên lưu là không phải duy nhất trong luận mệnh, nếu không thì Lưu Cơ chả làm nên sách TTT làm gì cho nhọc.
Tôi thấy, có lẽ ở đây nên dừng, nếu có luận thêm về TTT thì mời các bạn bước sang phần luận bàn " Hành lang TTT", mặc sức chúng ta cùng đàm luận TTT cho vui.
Link: http://tubinhdieudung.net/showthread.php?1050-H%C3%A0nh-lang-Tr%C3%ADch-Thi%C3%AAn-T%E1%BB%A7y
Cơ giam có đề cập đến trong TTT, còn về việc có vận dụng được hay không thì tuỳ người. Mệnh ông Đặng Tiểu Bình giờ Tý làm ví dụ, cơ giam tại Thân. Cái này ông Huỳnh Tích Dịch có nói, nhưng lại không dùng từ cơ giam. Xem cơ giam là xem những hạn nặng hoặc thọ chung. Cơ giam mà mất thì mệnh tang.
Khí hậu (táo, thấp, hàn, noãn) có ảnh hưởng đối với cả nguyên đầu và khí lưu, không luận khí hậu làm sao biết nguyên lưu dày mỏng, tức tràn đầy hay khô hạn?
Nếu khí lưu bị bế, tức trong mệnh cục nguyên lưu tiên thiên có nhưng khô cạn, thì ở hành vận có thể dùng ngũ hành thích hợp để thôi khí. Phần thôi khí này có thể giải thích phản cục trong Tử Bình, được TTT đề cập đến ở những phần như Tử Năng Cứu Mẫu, Quân Lại Thần Sinh chẳng hạn. Việc nguyên lưu tiên thiên có nhưng khô cạn là có cơ sở, vì dùng vượng thần làm nguyên đầu, thí có vượng ít, cũng có vượng nhiều, hơn nữa khi dòng khí đi qua mệnh cục có khi lại bị tán mất 1 phần, hoặc chỉ hoá được 1 phần, đến cuối cùng có tụ khí, nhưng tụ không được bao nhiêu so với lúc đầu. Cho nên mới nói phải dùng ngũ hành chính phản mới đủ, chỉ dùng thuận sinh luận nguyên lưu là không đủ. Hai mệnh cùng có nguyên lưu dài, quán xuyên toàn mệnh cục, tức là "thuỷ chung sở đắc" (TTT) nhưng quý tiện khác nhau, là do nguyên lưu tràn đầy hay khô cạn. Do dùng ngũ hành tại niên vận để thôi khí, nên TK gọi vui là Thông Thiên Kiều, tức nhờ hành vận mà đạt được thiên nhân hợp nhất.
Còn về hỷ kỵ, ông Bành Khang Dân đã nói rõ, đó cũng là "đắc mỹ" mà Từ Lạc Ngô đề cập nhưng không giải thích. Còn Nhâm Thiết Tiều thì chớ hề đả động đến. Tức tụ khí không thôi chưa đủ, vấn đề tụ khí mà có ích hay có lợi cho nguyên cục, chỗ tụ khí có giúp được cho nguyên cục đạt được cái trung chính bình hoà? Chỗ này TK đã đề cập với bác ở topic này trước khi đọc bài của ông Bành. Vì ông Bành Khang Dân nói rõ chỗ này nên TK chỉ đọc 1 phần luận về nguyên lưu mà dám nói hệ thống lý luận của ông ấy là biện chứng chứ không rơi vào giang hồ thuật sĩ như những người tự nhận là manh phái khác. Tức cứ thấy có nguyên lưu dài, có tụ khí thì bảo ngay rằng quý. TK cũng phục ông Bành ở thái độ rộng lượng chia sẻ kiến thức ở chỗ này. Vì đây mới là mục đích cuối cùng khi luận nguyên lưu. Mấy ông kia đều giấu hoặc nói mà không giải thích.
Mệnh chú trọng trung hoà, vậy cớ gì luận nguyên lưu thì không chú ý trung hoà? Không chỉ có nguyên lưu, ai dùng thanh trọc làm cốt lõi chẵn hạn, cũng phải hướng đến trung hoà. Tương tự cho luận mệnh bằng cách cục. Lan Đài Diệu Tuyển bị nhiều người chê là kì dị, không đáng tin chính vì nó không tôn trọng trung hoà. Trong khi Dao hệ vẫn có dính dáng 1 phần đến kì cách dị cục như Lan Đại Diệu Tuyển, cũng có cách lấy cơ giam kì dị (từ hư lấy thực), lại không bị đả kích? Đó là vì Dao hệ cũng chú trọng trung hoà. Điển hình là Phi Thiên Lộc Mã cách được suy ra từ Dao hệ.
Bác Lesoi bảo là luận nguyên lưu mà TK đi luận mệnh, vậy ví dụ ông Huỳnh Tích Dịch luận mệnh ông Đặng Tiểu Bình, không phải là phần lớn dùng nguyên lưu để định quý tiện hay sao? Ngoài nguyên lưu ra, trong ví dụ đó, ông Huỳnh Tích Dịch còn dùng cái nào khác nữa?
Nếu 1 người giỏi nguyên lưu, hoàn toàn có thể dùng nguyên lưu làm cốt lõi, những khái niệm khác trong Tử Bình làm phụ trợ để luận mệnh, cái này có gì không được? Cũng như luận ngũ hành sinh khắc chế hoá thuần tuý, vậy muốn định được dụng thần, rồi dụng thần có lực hay không có lực, không phải cũng lấy Dụng Thần làm cốt lõi, nhưng khái niệm khác trong Tử Bình làm phụ trợ (khí hậu, thiên phúc địa tái, tình hoà khí hiệp, liên châu, thanh trọc, chân giả, tinh thần) hay sao? Nói về tinh thần áp dụng trong Dụng Thần, đó chính là loại Tinh Thần mà ông Nhâm Thiết Tiều đã đề cập. Cho nên trong sách TTT của VN mới nhận định ông Từ Lạc Ngô bàn về tinh thần cao hơn ông Nhâm Thiết Tiều 1 bậc, gần với thượng thừa hơn. Do ông Từ xem áp dụng Tinh Thần vào mọi lưu phái, còn ông Nhâm chỉ giải thích Tinh Thần theo ngũ hành sinh khắc. Đó là lí do khi anh/chị DND hỏi, TK chỉ dùng phần tinh thần của Từ Lạc Ngô, mà không dùng phần tinh thần của ông Nhâm.
Còn về tinh thần thực chất là gì? Đây chính là phần áp dụng Đạo giáo vào Dịch / Tử Bình. Luyện tinh hoá khí, luyện khí hoá thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư nhập đạo. Ai hiểu được điều này thì có thể định Tinh Khí Thần vào hệ thống lí luận của mình. Ví dụng dùng Tinh Khí Thần định vào nguyên lưu. Hoặc có thể định vào ngũ hành chế hoá như ông Nhâm Thiết Tiều. Hoặc cũng có thể định Tinh Khí Thần vào phần luận Thanh Trọc, Chân Giả, nếu cốt lõi hệ thống lí luận của bản thân là xoay quanh phần này. Còn cụ thể định như thế nào, cái gì là Tinh, cái gì là Khí, cái gì là Thần, mỗi người cần tự tìm hiểu. Có thể đọc phần bình chú của ông Nhâm Thiết Tiều làm dẫn dắt.
Còn về Phi cung nhập mệnh, thôi để TK giải thích luôn. Trong mệnh ông Đặng, Mậu Tý phi cung tại Thìn, khống thuỷ, thâu thuỷ khí. Chứ Giáp làm sao đủ sức mà thâu hết vượng khí của mệnh cục này. Nếu luận 1 mình Giáp mà thâu được vượng khí, mệnh của TK chắc cũng xếp vào loại trung quý chứ chẳng chơi. TK có biết 1 người mệnh cục cũng thuỷ khí mênh mông, lại thấu nhất Giáp tại nhật trụ, lại có thổ đắc triều nguyên trụ giờ; tức mộc thổ cộng sinh mà hồi dương, nhưng cũng không thâu hết vượng khí nổi.
Nói về Phi cung nhập mệnh, nói thật với bác Lesoi, không phải không có lí do mà TK lập nick ở đây đã lâu rồi mà đến giờ mới đăng bài, mà bài đầu tiên lại chọn bác để "khai đao". Không phải TK cố tình chọn 1 người có tiếng tăm để "bước lên vũ đài", mà lí do là bên lyso, TK thấy bác có dùng 1 phần Phi cung (nhưng không có phần nhập mệnh), nên TK nghĩ xem như là 1/2 cái người đi cùng 1 đường nên mới sang đây quấy rầy bác, để xem có thật là người cùng 1 đường hay không. Vì hiện tại cái mà TK nghiên cứu chuyên sâu là 2 mảng ám thần phi cung và phi cung nhập mệnh, nếu tìm được 1 người cùng đường thì hay quá. Chứ TK không phải vào đây để phô diễn kiến thức, vì diễn đàn TK sinh hoạt chủ yếu không phải ở đây, cũng không có đọc bài ở đây bao giờ (biết bác Lesoi chủ yếu sinh hoạt ở đây là do bên lyso có người nói). TK cũng lo kiếm tiền trang trải cuộc sống nên không có nhiều thời gian. Đăng bài ở đây thì ở mấy diễn đàn khác TK không có thời gian viết bài hay xem mệnh cho các thành viên khác để lấy tư liệu cho 2 phần TK đang nghiên cứu, tức là viết bài ở đây thì việc nghiên cứu của TK bị dừng lại. Tuy nhiên do anh/chị NDN hỏi thì TK đáp vì cái nhân là TK sang quấy rầy bác thì cái quả này TK phải chịu (chứ TK hoàn toàn có thể không trả lời anh/chị DND), cho nên TK mới nói bác nhóm lửa thì TK góp gió, tức là TK trả nợ cho bác. Mà đáp thì phải đáp cho đàng hoàng. Cái gì nói thì nói, cái nào TK không muốn nói thì TK nói rõ là không muốn nói. Là không muốn nói chứ không phải chỗ đó TK không biết gì hết hoặc cố tình nói sai lệch, viết ra cho oai để mọi người nghĩ mình biết nhiều. Những điều mà TK viết ra đây đều có thể dùng để luận nguyên lưu, định quý tiện.
Nhưng có lẽ bác không nghiên cứu theo hướng phi cung, bài luận bên kia chỉ là vô tình đụng đến, và cái nhìn về Tử Bình cũng khác, nên thôi TK cũng dừng ở đây. :)
Kính bác.
Nếu 1 người giỏi nguyên lưu, hoàn toàn có thể dùng nguyên lưu làm cốt lõi, những khái niệm khác trong Tử Bình làm phụ trợ để luận mệnh, cái này có gì không được? Cũng như luận ngũ hành sinh khắc chế hoá thuần tuý, vậy muốn định được dụng thần, rồi dụng thần có lực hay không có lực, không phải cũng lấy Dụng Thần làm cốt lõi, nhưng khái niệm khác trong Tử Bình làm phụ trợ (khí hậu, thiên phúc địa tái, tình hoà khí hiệp, liên châu, thanh trọc, chân giả, tinh thần) hay sao? Nói về tinh thần áp dụng trong Dụng Thần, đó chính là loại Tinh Thần mà ông Nhâm Thiết Tiều đã đề cập. Cho nên trong sách TTT của VN mới nhận định ông Từ Lạc Ngô bàn về tinh thần cao hơn ông Nhâm Thiết Tiều 1 bậc, gần với thượng thừa hơn. Do ông Từ xem áp dụng Tinh Thần vào mọi lưu phái, còn ông Nhâm chỉ giải thích Tinh Thần theo ngũ hành sinh khắc. Đó là lí do khi anh/chị DND hỏi, TK chỉ dùng phần tinh thần của Từ Lạc Ngô, mà không dùng phần tinh thần của ông Nhâm.
Còn về tinh thần thực chất là gì? Đây chính là phần áp dụng Đạo giáo vào Dịch / Tử Bình. Luyện tinh hoá khí, luyện khí hoá thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư nhập đạo. Ai hiểu được điều này thì có thể định Tinh Khí Thần vào hệ thống lí luận của mình. Ví dụng dùng Tinh Khí Thần định vào nguyên lưu. Hoặc có thể định vào ngũ hành chế hoá như ông Nhâm Thiết Tiều. Hoặc cũng có thể định Tinh Khí Thần vào phần luận Thanh Trọc, Chân Giả, nếu cốt lõi hệ thống lí luận của bản thân là xoay quanh phần này. Còn cụ thể định như thế nào, cái gì là Tinh, cái gì là Khí, cái gì là Thần, mỗi người cần tự tìm hiểu. Có thể đọc phần bình chú của ông Nhâm Thiết Tiều làm dẫn dắt.
Cảm ơn TKhanh, tôi xin đính chính lại một lần nữa tôi không hỏi bạn Tinh thần theo nghĩa là chương Tinh thần của Trích thiên tủy, đọc qua thì bạn sa đà vào thuyết nhiều. Tôi chỉ mong bạn chia sẻ Nguyên lưu, bạn đã chia sẻ theo nhân sinh quan của mình, tôi rất cảm ơn và cũng có nhận định riêng khác bạn. Nhậm tiên sinh có thể diễn giải không hết ý nhưng các ví dụ của ông cũng đáng lưu tâm. Tôi mới học nên chỉ nói vậy thôi.
Những thứ khác thực tế trong phạm vi câu hỏi tôi không quan tâm, mong có dịp trao đổi cùng bạn khi tôi đọc đến.
Bác Lesoi bảo là luận nguyên lưu mà TK đi luận mệnh, vậy ví dụ ông Huỳnh Tích Dịch luận mệnh ông Đặng Tiểu Bình, không phải là phần lớn dùng nguyên lưu để định quý tiện hay sao? Ngoài nguyên lưu ra, trong ví dụ đó, ông Huỳnh Tích Dịch còn dùng cái nào khác nữa?
Theo tôi chỗ này chưa hẳn là vậy, có nhiều cách luận mệnh khác nhau. Thực tế cho thấy, luận mệnh khi đã thành cục ( thành khí thế) thì khỏi phải dùng đến các cách khác, Thái Tích Quỳnh tiên sinh luận mệnh ở đây cũng chẳng qua là luận theo cách cục mà thôi ( Nguyên lưu cũng chẳng qua là nói đến khí thế, khí thế cũng chính là cách cục đã thành cách)
Nói về Phi cung nhập mệnh, nói thật với bác Lesoi, không phải không có lí do mà TK lập nick ở đây đã lâu rồi mà đến giờ mới đăng bài, mà bài đầu tiên lại chọn bác để "khai đao". Không phải TK cố tình chọn 1 người có tiếng tăm để "bước lên vũ đài", mà lí do là bên lyso, TK thấy bác có dùng 1 phần Phi cung (nhưng không có phần nhập mệnh), nên TK nghĩ xem như là 1/2 cái người đi cùng 1 đường nên mới sang đây quấy rầy bác, để xem có thật là người cùng 1 đường hay không. Vì hiện tại cái mà TK nghiên cứu chuyên sâu là 2 mảng ám thần phi cung và phi cung nhập mệnh, nếu tìm được 1 người cùng đường thì hay quá.
Ý trên của TKhanh là ở lyso.vn tôi có đề cập, nhưng đó không phải là tôi dùng như bạn, mà tôi luận theo Mệnh cung riêng, từ Mệnh cung tôi lập ra Tinh bàn an theo 12 cung, là hoàn toàn khác với bạn. Bởi vì bạn dùng từ ngữ theo ý của bạn cho nên mới hỏi mà thôi. Hoàn toàn tôi không dùng ám thần mà tôi dùng Minh thần. Còn Ám và Minh thần thì tôi dùng ở trong tứ trụ chứ không dùng trong Mệnh cung.
VD Mệnh của ông Đặng Tiểu Bình. Theo "Bát tự danh nhân" thì ông sinh ngày 22/8/1904, lúc 0h20ph DL ( Nhằm ngày 12/7 âm lịch, năm Giáp Thìn). Sau tiết Lập Thu 14 ngày.
Các bạn cũng có thể tham khảo thêm Theo Wikipedia VN:
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng_Ti%E1%BB%83u_B%C3%ACnh
Tứ trụ:
Sát
Tài
Nhật nguyên
Tài
Giáp Thìn
Nhâm Thân
Mậu Tý
Nhâm Tý
Mậu,Quý,Ất
Canh,Mậu,Nhâm
Quý
Quý
Tỉ,Tài,Quan
Thực,Tỉ,T.Tài
Tài
Tài
Hoa Cái
Nguyệt Đức
Phúc tinh
Phúc tinh
Văn Xương
Tướng tinh
Tướng tinh
Phúc tinh
Nguyệt đức
Phú đăng hỏa
Kiếm phong kim
Tích lịch hỏa
Tang Chá mộc
Ngũ hành cực số: Kim: 1+1=2; Thủy: 6; Mộc: 2+1=3; Hỏa: 0+2=2; Thổ: 3.
Đại vận: Quý Dậu/Giáp Tuất/Ất Hợi/Bính Tý/Đinh Sửu/Mậu Dần/Kỷ Mão/Canh Thìn/Tân Tị. Khởi vận lúc 6 tuổi ( từ năm 1910 Canh Tuất)
Thai nguyên: Quý Hợi, Đại Hải thủy.
Cung Mệnh: cung Dậu;
Thái Dương tinh ở cung Ngọ;
Thái Âm tinh ở cung Mão;
Thân cung: cung Tý.
An 12 cung theo Mệnh cung sắp xếp như sau:
Tử Tức
Phụ Mẫu
(Thái Dương)
Huynh đệ
(Thiên Ất quý)
Tài Bạch
Nô bộc
Mệnh cung
Thê cung
(Thái âm)
Tướng mạo
Tật ách
Thiên di
(Thiên Ất)
Quan lộc
(Thân cung)
Phúc đức
Theo tôi chỗ này chưa hẳn là vậy, có nhiều cách luận mệnh khác nhau. Thực tế cho thấy, luận mệnh khi đã thành cục ( thành khí thế) thì khỏi phải dùng đến các cách khác, Thái Tích Quỳnh tiên sinh luận mệnh ở đây cũng chẳng qua là luận theo cách cục mà thôi ( Nguyên lưu cũng chẳng qua là nói đến khí thế, khí thế cũng chính là cách cục đã thành cách)
Trùng với nhận định như bác lesoi, Nguyên lưu không ngoài cách cục. Mấu chốt vẫn là từ đề cương mà ra.
Kính bác Lesoi
Em yêu thích bộ môn tứ trụ từ lâu nhưng ko có người chỉ dạy và cũng ko biết bắt đầu từ đâu, đọc sách nào nên kiến thức về tứ trụ gần như bằng không. Gần đây lang thang trên mạng thì tìm đến trang nhà, được gặp bác và các bạn cùng có niềm đam mê tứ trụ, em thấy bác ngoài kiến thức sâu rộng còn có tấm lòng cởi mở và sẵn sàng chia sẻ kiến thức với mọi người. Em mạo muội đặt vấn đề nhờ bác (nếu bác vui lòng) chỉ dẫn em những bước đầu tiên để có thể tiếp cận bộ môn này một cách chính tắc hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Kính chúc bác ngày cuối tuần vui vẻ.
Hôm nay nhân tiện bạn nvx77 có ý trên, tôi cũng mạnh dạn nói ra hết ý nghĩ mà từ trước đến nay không dám nói ra sợ mạo phạm đến nhiều người.
Tôi nghĩ rằng, bước đầu ai cũng gặp khó khăn như vậy cả. Ở trang web này không thiếu tài liệu từ thấp đến cao, bước đầu học mệnh lý cần phải hiểu rõ ngũ hành sinh khắc ( thường lý), sau đó học đến biến lý, phải nắm chắc ngũ hành cơ bản rồi tuần tự mà tiến. Không có bậc thánh nhân nào mà vượt qua cửa ải này cả.
Các sách có giá trị như Thiên Lý mệnh cảo, Tử Bình chân thuyên, Trích Thiên tủy, Tam Mệnh thông hội, Thần Phong thông khảo ... đã có ở diễn đàn. Sau khi đọc xong thì tiến hành luận mệnh, trước hết là luận mệnh của mình và người nhà, phải thật sự nắm chắc nguyên tắc luận mệnh trình tự, không nên vượt rào dễ dẫn đến mông lung không biết lối ra.
Kết hợp cùng thảo luận trên các diễn đàn để rút kinh nghiệm mà áp dụng vào thực tế.
Hi vọng bạn có thể nắm được.
Lưu ý: Phải nhớ là các tủ sách đang bán trên thị trường hiện nay ở trong nước, đại đa số là sách nhập qua đường tiểu ngạch, các phiên bản đều không đăng ký hợp đồng chính thức, hơn nữa người dịch thuật ít hiểu mệnh lý, dịch không sát chủ đề, dịch không đúng thuật ngữ. VD như cái gọi là " Phi tinh nhập mệnh", "Cơ giam" ... là không có ở trong luận mệnh theo thuật Tử Bình; giải thích từ ngữ không rõ ràng ... dẫn đến người đọc dễ đi vào đường "Mờ ảo" không hiểu.
Tôi và các bạn đồng hành đã cất công đi tìm mệnh thư từ phía Trung quốc nước bạn, không kể ngày đêm bỏ công dịch thuật là vì ý này. Mong muốn học thuật trong nước không lạc hướng vì những người " Chỉ biết làm tiền thiên hạ" qua các loại sách vớ vẩn, làm biết bao người đã lầm đường ( trong đó có tôi lúc trước đây). Lời tôi nói có thể làm nhiều người ganh ghét, nhưng tôi bất chấp chuyện này, các bạn có tin hay không là tùy ý.
Chúc bạn cuối tuần vui vẻ.
Kính bác Lesoi
Cảm ơn bác nhiều vì đã chia sẻ kinh nghiệm quý báu cho các bậc hậu bối bắt đầu tò te tìm hiểu tử bình như em, thực sự là nếu không có người dẫn dắt thì hậu học dễ đi vào ma trận đúng sai sai đúng không biết đường nào mà lần. Nhân tiện nhờ bác chỉ giúp em mấy nội dung sau:
1. Thứ tự ưu tiên các đầu sách cần đọc theo cấp độ từ thấp đến cao?
2. Trình tự các bước khi luận mệnh? Em thấy bác có dùng cả nạp âm của các trụ và Thai nguyên để tính vượng suy của nhật chủ, đoạn này em chưa được hiểu rõ rất mong được bác chia sẻ thêm.
Trân trọng cảm ơn bác!
Lưu ý: Phải nhớ là các tủ sách đang bán trên thị trường hiện nay ở trong nước, đại đa số là sách nhập qua đường tiểu ngạch, các phiên bản đều không đăng ký hợp đồng chính thức, hơn nữa người dịch thuật ít hiểu mệnh lý, dịch không sát chủ đề, dịch không đúng thuật ngữ. VD như cái gọi là " Phi tinh nhập mệnh", "Cơ giam" ... là không có ở trong luận mệnh theo thuật Tử Bình; giải thích từ ngữ không rõ ràng ... dẫn đến người đọc dễ đi vào đường "Mờ ảo" không hiểu.
Tôi và các bạn đồng hành đã cất công đi tìm mệnh thư từ phía Trung quốc nước bạn, không kể ngày đêm bỏ công dịch thuật là vì ý này. Mong muốn học thuật trong nước không lạc hướng vì những người " Chỉ biết làm tiền thiên hạ" qua các loại sách vớ vẩn, làm biết bao người đã lầm đường ( trong đó có tôi lúc trước đây). Lời tôi nói có thể làm nhiều người ganh ghét, nhưng tôi bất chấp chuyện này, các bạn có tin hay không là tùy ý.
Chúc bạn cuối tuần vui vẻ.
Đúng như anh lesoi nói, các sách Tứ trụ dịch qua tiếng Việt trên thị trường hiện nay như: Tam mệnh thông hội, Uyên hải tử bình, Cùng thông bảo giám, Trích thiên tủy... chất lượng dịch thuật rất kém vì người dịch hiểu biết rất hạn chế về Tứ trụ và các thuật ngữ của môn này. Các bạn nên cân nhắc xem kỹ trước khi mua.
Kính bác Lesoi
Em muốn tìm mua cuốn "Cùng thông bảo giám" nhưng sợ người dịch không có chuyên môn, hôm nọ hí hửng đi mua cuốn "Tam mệnh thông hội" về đọc, đọc được mấy đoạn thì bỏ vì đoạn cần dịch thì ko dịch. Nếu bác có bản dịch của bác cuốn "Cùng thông bảo giám" bác có thể cho em xin một bản được ko ạ, em cảm ơn bác trước.
Em muốn tìm mua cuốn "Cùng thông bảo giám" nhưng sợ người dịch không có chuyên môn, hôm nọ hí hửng đi mua cuốn "Tam mệnh thông hội" về đọc, đọc được mấy đoạn thì bỏ vì đoạn cần dịch thì ko dịch. Nếu bác có bản dịch của bác cuốn "Cùng thông bảo giám" bác có thể cho em xin một bản được ko ạ, em cảm ơn bác trước.
Chỗ này tôi đã nói nhiều rồi, các quyển sách mà bạn mua, cũng như bạn Long46 giới thiệu "Cùng thông bửu giám" trong quyển sách Uyên Hải Tử bình là sai bét. Trước đây tôi đã mua rồi, hiện đang bỏ vào sọt rác không dùng.
Cùng Thông bửu giám là sách của Vạn Dục Ngô do Từ Nhạc Ngô bình chú không có trên thị trường VN, chỉ có ở TQ mà thôi. Còn Uyên Hải Tử Bình lại là của Từ Thăng, góp nhặt rất nhiều bài phú luận mệnh, mà hiện nay trên thị trường có cũng sai bét nhè!
Tiếc là các bạn không dùng được tiếng Hoa, nếu biết tôi sẽ chỉ đường link dẫn cho các bạn biết, qua đó tha hồ mà học, mới biết thuật luận mệnh ở nước ta là như thế nào so với họ.
Nếu bạn có tâm và có tầm, thì bạn nên đọc kĩ Tử Bình chân thuyên bình chú và Trích Thiên Tủy bình chú là hay nhất. Sau đó mới học thêm các cách luận khác của các tài liệu ở trang web này là đả thông Tử Bình nhập mộn rồi. Nếu có duyên thì bạn cứ chờ đấy, tôi nghĩ là tôi sẽ không hạn chế dịch sách cho các bạn đọc đâu mà lo, chỉ ngại là phiền các cao thủ bảo thủ ý kiến của mình cho là sách dzởm mà thôi!
Chỗ này tôi đã nói nhiều rồi, các quyển sách mà bạn mua, cũng như bạn Long46 giới thiệu "Cùng thông bửu giám" trong quyển sách Uyên Hải Tử bình là sai bét. Trước đây tôi đã mua rồi, hiện đang bỏ vào sọt rác không dùng.
Cùng Thông bửu giám là sách của Vạn Dục Ngô do Từ Nhạc Ngô bình chú không có trên thị trường VN, chỉ có ở TQ mà thôi. Còn Uyên Hải Tử Bình lại là của Từ Thăng, góp nhặt rất nhiều bài phú luận mệnh, mà hiện nay trên thị trường có cũng sai bét nhè!
Tiếc là các bạn không dùng được tiếng Hoa, nếu biết tôi sẽ chỉ đường link dẫn cho các bạn biết, qua đó tha hồ mà học, mới biết thuật luận mệnh ở nước ta là như thế nào so với họ.
Nếu bạn có tâm và có tầm, thì bạn nên đọc kĩ Tử Bình chân thuyên bình chú và Trích Thiên Tủy bình chú là hay nhất. Sau đó mới học thêm các cách luận khác của các tài liệu ở trang web này là đả thông Tử Bình nhập mộn rồi. Nếu có duyên thì bạn cứ chờ đấy, tôi nghĩ là tôi sẽ không hạn chế dịch sách cho các bạn đọc đâu mà lo, chỉ ngại là phiền các cao thủ bảo thủ ý kiến của mình cho là sách dzởm mà thôi!
Kính bác
Em mua cuốn "Tam mệnh thông hội" cách đây khoảng 3 tháng trước khi biết trang nhà, hic, càng hí hửng càng thất vọng. Em tự thấy mình chưa thành thục về âm dương ngũ hành nên mới hỏi bác cuốn "Cùng thông bảo giám", các sách khác đều có đề cập đến nhưng em thấy khá sơ sài nên cũng ko lĩnh hội được nhiều. Lúc nào bác có thời gian dịch cuốn này ra cho mọi người cùng tìm hiểu thì quý giá quá.
Trân trọng cảm ơn tấm lòng của bác.
Sách Tam Mệnh thông hội của vạn Dân Anh tiền bối, sách này luận nạp âm hay nhất trong các sách, nếu có điều kiện bạn đọc tham khảo thêm. Nhưng nên chú trọng học Tử Bình chân thuyên trước đã, tiếc là sách này không có nói phần nhập môn Tử Bình chính tông, mà luận thẳng đến phần nâng cao khiến cho nhiều người không hiểu thế nào là cách cục dụng thần, không biết định cách cục. Cho nên nhiều người xem xong rồi bỏ qua vì khó hiểu, rồi sau đó đi học cái gọi là " Vượng nhược" để phải sa lầy vào chốn rừng rậm không có lối ra.
Còn Trích Thiên tủy cốt lỏi của nó muốn hiểu thấu thì cần có Cùng Thông bửu giám, vì luận khí thế và khí số của sách này là hướng đi của Trích Thiên tủy.
Ngoài ra cần phải nắm các bại phú trong Uyên Hải Tử Bình như Kế Thiện thiên, Tiêu tức phú, Ngũ ngôn độc bộ, Tứ ngôn độc bộ ... bên cạnh đó tham khảo Nguyệt Đàm phú là của Manh nhân tích lũy lâu đời rất là hay ..., sau đó là luận mệnh thực tế rút kinh nghiệm.
Từ từ mà tịnh tiến thì tôi nghĩ sẽ nắm vững Tử Bình.
Sách Tam Mệnh thông hội của vạn Dân Anh tiền bối, sách này luận nạp âm hay nhất trong các sách, nếu có điều kiện bạn đọc tham khảo thêm. Nhưng nên chú trọng học Tử Bình chân thuyên trước đã, tiếc là sách này không có nói phần nhập môn Tử Bình chính tông, mà luận thẳng đến phần nâng cao khiến cho nhiều người không hiểu thế nào là cách cục dụng thần, không biết định cách cục. Cho nên nhiều người xem xong rồi bỏ qua vì khó hiểu, rồi sau đó đi học cái gọi là " Vượng nhược" để phải sa lầy vào chốn rừng rậm không có lối ra.
Còn Trích Thiên tủy cốt lỏi của nó muốn hiểu thấu thì cần có Cùng Thông bửu giám, vì luận khí thế và khí số của sách này là hướng đi của Trích Thiên tủy.
Ngoài ra cần phải nắm các bại phú trong Uyên Hải Tử Bình như Kế Thiện thiên, Tiêu tức phú, Ngũ ngôn độc bộ, Tứ ngôn độc bộ ... bên cạnh đó tham khảo Nguyệt Đàm phú là của Manh nhân tích lũy lâu đời rất là hay ..., sau đó là luận mệnh thực tế rút kinh nghiệm.
Từ từ mà tịnh tiến thì tôi nghĩ sẽ nắm vững Tử Bình.
Kính bác
Nếu bác cho phép em xin phép mở riêng một topic để mỗi lần cần hỏi bác điều gì em hỏi trong topic đó cho tiện tránh ảnh hưởng đến các bạn khác bàn luận.
Cảm ơn bác nhiều!
Tôi nghĩ rằng: Khi mở topic riêng tư thì không nên, vì đây là diễn đàn chung cho tất cả mọi người chứ không riêng gì của tôi và bạn. Cho nên theo tôi nghĩ bạn muốn thảo luận chương mục nào thì nên mở thêm phần " Hành lang thảo luận" theo chuyên đề đó là hay nhất. Sau đó là để cùng mọi người tham gia vào thì rất hay.
VD: Bạn cần thảo luận chủ đề về Trích Thiên Tủy hoặc Tử Bình chân thuyên thì ta hãy vào mục Hành lang thảo luận của chuyên mục đó là hay nhất.
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.