View Full Version : Thương quan cách
Thương quan cách
Biên tập
Giới thiệu
Thương quan cách là hệ phái tổng luận của Tử bình, Thương quan cách là Nguyệt lệnh Thương quan, không có xung hợp. Tổng cộng có 5 cách.
1. Thương quan phối Ấn cách. Nhật chủ thân nhược, Ấn tinh có căn, Thương Thực cường vượng. Nếu có chính Quan nhất định phải là Thương trước hậu Quan. Cách thành kị Tài, ngoài ra có Quan Sát hộ Ấn. Kị Quan Sát vượng, để tránh mẫu vượng tử tuyệt.
2. Thương quan khí Quan cách, cách này cần có Quan tinh vi nhược với Thương quan đối địch khắc chiến, mệnh cục không có Ân tinh 【 kể cả tàng can 】.Tối kị gặp Tài, Thương tận Quan tinh, thì được an nhàn phú quý.
3. Thương quan giá ( điều khiển) Sát cách, giống như các cục Thương quan khứ Quan, nhưng không cần Quan Sát hỗn tạp, đa số là cảnh sát vũ tranh hoặc người học võ.
4. Thương quan sinh Tài cách. Tài tinh có căn không gặp xung khắc, không có Quan Sát, Ấn tinh. Kiếm tiền đều giựa vào bàn tay của mình, đa số là phú quý. Vận kị Quan Sát, Ấn tinh, nếu có thì phá cách.
5. Khí mệnh tòng nhi cách. Thương quan ( Thực thần) vượng mà vô chế, thân cực nhược, toàn cục không gặp Chính ấn, Quan Sát, Tỷ Kiếp hết thảy không thấy, đó chính là Tòng nhi cách, đa số phú quý.
Tiết thứ 6: Thương quan cách
Ca quyết:
Thương quan nhược thương tận,
bất hỷ kiến quan tinh;
thương quan nhược luận tài,
kiến họa bất khinh lai;
Thương quan nhược dụng ấn,
khắc sát bất như hình;
thương quan vượng sinh tài,
đới hợp thanh danh lai.
Dich nghĩa:
Thương quan nếu thương tận,
không hỉ Quan tinh;
Thương quan nếu luận Tài,
gặp họa không phải nhẹ;
Thương quan nếu dụng Ấn,
khắc Sát không bằng hình;
Thương vượng lại sinh Tài,
kèm hợp thanh danh đến.
Ca quyết:
thương quan thương tận tối vi kỳ,
vưu khủng thương đa phản bất nghi.
Thử cách cục trung thiên biến hóa,
suy tầm tu yếu dụng tâm cơ.
Hỏa thổ thương quan nghi thương tận,
kim thủy thương quan yếu kiến quan;
mộc hỏa kiến quan quan hữu lý,
thổ kim quan khử phản thành quan;
Dịch nghĩa:
Thương quan thương tận tối là kì,
Rất sợ Thương nhiều ngược lại thì không hợp.
Trong cục có cách này thì thiên biến vạn hóa,
khi suy đoán phải dụng tâm cơ.
Hỏa thổ Thương quan hỉ thương tận,
Kim thủy Thương quan cần gặp Quan;
Mộc hỏa gặp Quan Quan hữu lý,
Thổ kim Quan khứ phản thành Quan;
Duy có thủy mộc Thương quan cách, Tài Quan cùng gặp mới là vui mừng. Thương quan không thể nói là hung, có chế thì vẫn có y lộc phong túc;
Trên Can là Thực thần mà Chi kèm theo hợp, Tử tôn đầy đàn mà thọ như tùng bách. Mệnh có Thương quan gặp là vốn không thích hợp, có Tài vô Quan thì có nền tảng của phúc đức;
Nhật nguyệt Thương quan thành cách cục, Vận hành Tài vượng thì quý mà không phải nghi ngờ; cậy vào tài năng mà khinh người tâm tính điên khùng, cậy mạnh hiếp yếu dung mạo thấp hèn.
Thông minh lo nghĩ nhiều suy tư, tranh cường hiếu thắng mà luôn khác thường; Thương quan Thất sát hai loại hung, thân tàn mà lại đi đôi với kiện cáo.
Thương quan gặp Tài thì không tổn Quan, Thương quan thương tận làm đại Quan; Thương quan đeo Nhận có thể có văn võ, Thương quan một loại mà tòng nhi thì vui mừng.
Mộc hỏa Thương quan văn chương tốt, Kim thủy Thương quan thì nguồn dài vô tận. Nguồn của Thương quan là thần của sản nghiệp, Thương tận thật là người đại quý;
Nếu là Thương quan thương không tận, Quan đến thừa vượng họa không nhẹ. Nguyệt lệnh gặp Quan ở đất Quan, Thương nhẹ giảm lực còn không ngại;
Nếu gặp hình xung với phá hại, biết được Quan vị không dài lâu. Thương quan thương tận phục sinh Tài, Tài vượng sinh Quan hỗ hoán nhau;
Tứ trụ nếu không có Quan hiển lộ, dễ nói phú quý chớ nghi ngờ. Cách cục Thương quan tối thần kỳ, gặp phải thì phải suy đoán cho tường tận.
Giải nghĩa
Thương Quan là vật mà ta sinh khác tính âm dương, là con cái mà ta sinh, là con mà ta cưng chiều, là con mà ta được thấy được tự hào kiêu ngạo vì con, vì con cái mà tranh quyền đoạt lợi. Như Giáp gặp Đinh hỏa Ất gặp Bính, Bính gặp Kỷ thổ Đinh thấy Mậu, Mậu gặp Tân kim Kỷ gặp Canh, Canh gặp Quý thủy Tân gặp Nhâm, Nhâm gặp Ất mộc Quý gặp Giáp. Giáp mộc dụng Tân kim là Quan, thì giành được quyền thế hoặc vinh hoa, Đinh hỏa thừa lúc vượng mà tiết cướp nguyên khí của Giáp mộc, khắc chế Quan Tân kim, làm cho Quan tinh Tân kim không thể giúp đỡ Giáp mộc mà thành quý khí. Cho nên gọi là Thương quan ( tức là thương hại quý khí của Quan tinh). Thương quan bất cẩn có thể khắc Quan quý của ta, cũng có thể tiết cướp nguyên khí của ta. Thương quan tuy rằng đạo khí phá Quan, nhưng dù sao cũng là vật mà ta sinh, thuộc về thần của khí huyết lưu thông. Chính gọi là "Chiến tranh thân Huynh đệ, thượng trận phụ tử binh" . Thương quan thương tận lại có thể sinh Tài lợi, Sinh xuất Tài để còn sinh Quan. Như khi Giáp nhật chủ bị Quan tinh Tân kim khắc chế, hoặc lúc Giáp nhật chủ vượng mà không chế phục, mà ta sinh là Đinh hỏa thì chính là Đinh hỏa dũng cảm đứng ra cứu giúp, tức là con có thể cứu mẹ.
Thương quan cách là cách cục gặp nhiều nhất, cũng là cách cục phức tạp và đặc thù nhất. Nó thường hay so sánh sự mưu trí và quyền uy lớn của Thất sát, cũng thường hay so sánh với tính ẩn láu và tính hung mãnh của Thất sát. Nó cũng muốn so sách với sự cương nghị sắc bén của Dương nhận và cũng muốm so sánh với sự tàn bạo và vô tình của Dương nhận. Cho nên, nhất định cần tính toán đến tính chất khinh trọng của nó, nghiên cứu đến ngọn nguồn sự nông sâu của nó, rồi sự chế hóa có tình hay không có tình, hình xung có thỏa đáng hay không. Thương quan tất cần gặp Tài thần, mà không có Tài tất thanh bần, thân nhược nhiều tổn thương đến tuổi thọ. Cương cường chớ qúa với Thất sát, thông minh chớ qúa với Thương quan. Người mà trong mệnh cục có Thương quan, nếu sinh vượng là hỉ dụng, đại đa số là có tú khí thông minh, cát lành phong lưu, thích văn chương nghiên bút, có thể là người có sở trường về tranh biện, đa tài đa nghệ; nếu như cùng lúc có cát tinh quý nhân, thì danh lợi song toàn, văn võ đều giỏi, quyền cao chức trọng, hai ba đời vinh hiển. Nếu thân nhược vô Tài hoặc thân nhược mà không có Kiếp Ấn, thì học nhiều mà ít thành, từ khéo mà thành vụng, lòng dạ khó lường, thông minh mà bởi do thông minh mà bị hại; nếu như cùng lúc gặp hung thần ác sát, thì tâm cao khí ngạo, tự cao tự đại, không coi ai ra gì, vô sở bất vi, coi trời bằng vung, hình thương phá bại. Thương quan và Thất sát giống nhau là đều cần chế phục, mà cũng không nên chế phục thái quá; nếu chế phúc thái quá, thì sẽ mất đi cái thần uy của nó.
Thương quan thương tận làm đại quan, sự thương tận này mà nói cũng không phải là sự thương tận của Quan tàng trong Tam nguyên, Ý là Quan tinh không cần hiện rõ hoặc thấu xuất. Ví dụ như bát tự của Tưởng Giới Thạch tiên sinh: Đinh Hợi, Canh Tuất, Kỷ Tị, Canh Ngọ. Bản thân lấy Canh kim là Thương, lấy Giáp mộc trong Hợi làm Quan, mà Giáp thâm tàng ở trong Hợi trường sinh, mà không bị thương hại, lại có Đinh hỏa đắc khí thông căn chế ngự Thương quan, (Đinh) sinh ở lệnh tháng tứ quý ( tháng Mùi) lại được Lộc Nhận lộc bảo hộ, không sợ trước sau cùng tiến. Cho nên quý hiển hai đời. Sách mệnh nói: Thương quan gặp Quan, thì họa bách đoan. Chủ yếu là can chi hiện rõ gặp phải. Thương quan thương tận cách, thì nhất định cần gặp Tài tinh, cũng nhất định cần Thân vượng, nếu không thì, quyết không thể lấy thành cách để luận.
Thương quan bội Ấn nắm đại quyền, ý chỉ là nguyệt lệnh gặp Ấn thụ, nếu trên trụ khác gặp Thương quan ; hoặc nguyệt lệnh là Thương quan, trên trụ khác gặp Ấn thụ, thì chính là Thương quan bội ấn cách. Điều kiện của tiền đề là nhật chủ ở trong địa chi nhất định phải có khí, có khí mới có thể dựa vào lực được sinh hoặc tú khí lưu hành. Quý nhân Dịch Mã không nên hình xung hợp hại, Thiên Nguyệt Nhị Đức hoặc hợp đức không nên ở gần, ở gần thì bị khắc mà vô cứu. Ví dụ như một mệnh tạo: Bính Thìn, Đinh Dậu, Mậu Thân, Giáp Dần. Thổ kim Thương quan bội Ấn cách, thân mệnh lộc không có chỗ giựa, Thất sát ở gần khắc chế, bần hàn khốn khó, trong vận Canh Tý do tội cướp bóc mà vào tù. Lại một mệnh: Đinh Tị, Mậu Thân, Nhâm Dần, Ất Tị. Thủy mộc Thương quan mang tam hình, Nguyệt đức Quý nhân, hai Tị kẹp lộc mã, Quan trường không gặp sóng gió, quý hiển làm đến thừa tướng, thê thiếp hòa thuận sinh 6 người con đều thành tài.
Thương quan bội Nhận văn võ song toàn, ý chỉ là thấu Thương tọa lâm vượng. Thương quan tính thông minh nhưng kiêu ngạo, Dương nhận thể trạng hiếu chiến. Cho nên mới gọi là học tốt mà văn võ song toàn, khoe tài với nhà đế vương. Nếu cách thanhc cục chính, địa chi an thuần, thiên can triều củng, nhất định là nhân tài của đất nước, phú quý không thể đo đếm được. Ví dụ một mệnh: Giáp Dần, Nhâm Thân, Tân Sửu, Nhâm Thìn. Thương quan bội Nhận, Mã đầu đeo kiếm, tối hỉ Dần xung, không xung không phải là thúc giục tiến lên; Thân vượng Tài thổ tú, Tài tọa lộc địa tự sinh Quan; Thiên can không thấu Quan Nhận Mã thì không thương hại, địa chi không gặp Quan Tài Lộc thì không tổn, Thương quan thương tận là đại Quan. Xuất thân tập võ, mãi Quan xuất sĩ, từ một bách phú mà thăng đến binh mã đại nguyên soái. Ví dụ như một mệnh nam thân nhược: Đinh Tị, Nhâm Dần, Tân Hợi, Bính Thân. Cũng là Thương quan bội Nhận, tam hình tứ xung Thân nhược vô cùng, tòng không được mà theo sinh cũng không được sinh; Bính Tân nhất hợp, Đinh Nhâm nhất hợp, hợp hóa Tài vượng; Kim là đầu nguồn sinh đến Sát, Sát cường ức hiếp thân nhược; Tứ mã không thể hoàn chỉnh, mà chỉ trách mệnh vận đau khổ. Thông minh lại phong lưu, thua thiệt chứng tỏ là kẻ không thành người, vì quá ham vọng cao sang, 30 tuổi mà chưa thành hồn, đến già mà chẳng có thành tựu gì.
Thương quan gặp Tài thì không làm tổn hại Quan, đây là chỉ Thương quan đóng trên Tài thần, hoặc Tài thần tọa trên Thương quan, hoặc Thương quan Tài thần gần nhau có căn khí. Thương quan nhiệm Tài cũng là đại cách cục. Ví dụ có một nữ mệnh: Kỷ Tị, Quý Dậu, Bính Dần, Kỷ Hợi. Lưỡng thấu Thương quan gặp Quan. Quan tinh tọa độc khí Tài nguyệt thông căn mà không nhược, Thương quan tọa nhận mà chằm chằm như hổ đói muốn vồ Quan, nhật chủ Bính hỏa tọa Dần mà thông với Tị lộc trụ năm hợp Quan mà cận quý; địa chi hỏa kim mộc thủy không thương không chiến khí thần tĩnh mà vui vẻ, thiên can thấp thổ có thể sinh kim nạp thủy mà dung nạp được cái tình của táo hỏa, Quý thủy âm nhu mà theo tính của mình mà có công sinh hóa như cơn mưa mùa xuân; cho nên sinh ở nhà khuê các đại gia, cầm kì thi họa đều tinh thông, đường học phát triển làm giáo sư. Đại vận Mậu Dần lưu niên Quý Hợi được đề bạt thăng cấp làm sở trưởng sở nghiên cứu cơ giới. Lấy được chồng tốt mà sinh quý tử, cuộc đời không gặp trắc trở lớn, công danh lợi lộc hơn hẳn nam tử.
Kim thủy Thương quan cần gặp Quan, câu này là chỉ mệnh cục sinh vào tháng mùa đông giá rét. Mùa hạ hỏa viêm nóng mãnh liệt không có thủy thì không thể sinh trưởng, mùa thu gió tuyết lạnh lẽo không có hỏa thì không thể xua đuổi hàn lạnh. Cho nên kim thủy Thương quan thì cần hỏa đến để sưởi ấm mệnh cục, mới có thể giải băng hàn sưởi ấm cơ thể, thì mới có thể làm nên thành tích to lớn. Nếu không có hỏa cháy sáng, thì cũng cần có Giáp Ất Dần Mão hoặc Mùi Tuất; tối kị Canh Tân đến gây sóng gió, mà Thân Dậu đến thì chẳng khác nào lối giáo cho giặc. Ví dụ một nam mệnh: Quý Mùi, Giáp Tý, Canh Thân, Đinh Hợi. Kim thủy Thương quan gặp Quan dụng Tài hỉ Quan cách. 4 cái nhật chủ Thương Tài Quan đều có khí lực, ngang tài ngang sức. Đại vận Nhâm Tuất ngăn trở thủy đuổi hàn lạnh văn bằng học nghiệp lấy dễ như trở bàn tay, vừa vào đại vận Tân Dậu cuốn vào hoạt động chính trị, trao quyền cho cấp dưới đi lao động ở cơ sở, thương thê hình tử. Năm 36 tuổi Mậu Ngọ thực hiện song chính sách trở về thành phố, cán bộ kỳ cựu được bố trí đến trường trung học dạy ngoại ngữ. Năm Bính Dần 44 tuổi được điều đến tỉnh ngoài làm phiên dịch, năm thứ hai được nhà nước đài thọ cho đi học chuyên sâu. Năm 50 tuổi Nhâm Thân được thăng và đảm nhiệm chức phó cục trưởng cục Thương mậu, năm Giáp Tuất được đề bạt và đảm nhiệm chức vụ chính thức ( cục trưởng). Kỷ Mùi Mậu Ngọ hàn cục hướng noãn ( hàn cục được sưởi ấm), một đường hoan ca mà thẳng tiến. Duy chỉ vận Bính Thìn Quan Lộc Mệnh đều bị tổn hại.
Các cục Thương quan, có thể liệt kê ra vô số, rắc rối khó hiểu phức tạp, khó nhất là làm sao giải thích được rõ ràng. Người Trung Quốc nói Thương quan là sao trí tuệ. Người Nhật nói Thương quan là sao khoa học kỹ thuật, có thể đa số trong mệnh cục nó lại là hung thần ác sát tinh. Nói chung, thân vượng tối hỉ Thương quan thổ tú sinh Tài, thân nhược sợ nhất Thương quan gặp vận Tài Quan. Thương quan gặp Tài không sợ Quan, nhưng với điều kiện của tiền đề là thân cường, thân nhược thì mừng đi vào vận Ấn Tỉ. Thương quan cần thương tận, vận nhập đất Tài họa không nhẹ, lưu niên gặp Quan tai ương nặng; vận nhập Quan hương có kỳ tai, lưu niên gặp Tài tiếng khóc đến. Thương quan gặp Quan cần gặp Tài, vận nhập Kiếp Ấn danh lợi đến, 3 cái cần cùng thấu ra, hoặc là Tài Quan tọa ở hàng trước. Kim thủy Thương quan tối khó xử lý sao cho thỏa đáng, mộc hỏa tất cần sắp xếp đúng lúc, 10 thì có 5,6 mệnh bần hàn khổ cực, còn có 2,3 là mệnh đoản thọ, chỉ có 1,2 thì có thể được. Thương qua hỉ tương hợp, có hợp thì có tiếng tăm; Thương quan hỉ khắc chế, có chế có tiết thì tai họa ít, chế tiết cũng cần thích hợp. Thương quan thông minh hiếu học, trí nhớ tốt ngộ tính cao. Thích thiên văn địa lý, thần kỳ ảo diệu, lòng hiếu kỳ mà kiên cường bất khuất, hiếu thắng mà cố chấp. Trong mệnh sinh và thuần túy thì lòng dạ khoan dung độ lượng, lễ nghĩa bao dung, khiêm nhường mà cẩn trọng, lập chí lớn mà thành đại sự. Hưu tù tử tuyệt không thành cách, tâm cao khí ngạo không chịu khuất phục, luôn xem người khác không bằng mình, đứng núi này trông núi nọ, việc lớn làm cũng không được mà tới việc nhỏ cũng không muốn làm, ba hoa khoách lác hoặc là phường trộm cướp, thương tàn lao ngục vài lần bị, oán trời trách người mà tức giận đến cùng cực, bất trung bất nghĩa mà lại còn nhiều bất hiếu.
Còn như Thương quan dụng Quan Sát, Thương quan dụng Ấn thụ, Thương quan dụng Tài thần, Thương quan dụng Thực Thương, Thương quan dụng Tỉ Kiếp, hay là Thương quan phải thương tận, hoặc là Thương quan gặp Quan là họa trăm mối, đều cần xem xét sự sắp xếp của mệnh cục với hướng đi của đại vận thì có thể nói hỉ kỵ mà định. Không thể hất thảy mà luận, Tòng cách tòng cục là thứ 1, hỉ dụng hình thương là thứ 2. Đắc khí thâm tiện là thứ nhất, kỳ cách dị cục là thứ hai. Tiên thiên mệnh cục là thứ nhất, hậu thiên niên vận là thứ hai. Chỉ có tổng hợp phán đoán một cách điên đảo, mới có thể thu được kết luận chính xác giầu nghèo cát hung họa phúc. Chỗ cảnh giới tối cao của luận mệnh: Là lấy vật tượng trừu tượng tiến hành luận đoán tổng hợp để có giá trị của hình tượng.
Một mệnh tao trong "Trích Thiên Tủy"
Càn tạo:
Kiêu Ấn, Chính quan, nhật nguyên, Kiêu Ấn
Canh Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Thìn, Canh Tý .
Hoa Cái, Quý nhân, Hoa Cái Dương nhận, Tài thần, Tài khố.
Thai nguyên Canh Ngọ, lập mệnh cung Tuất.
Ngũ hành: 3 mộc, 3 thổ, 3 thủy, 2 kim, không có hỏa; Nạp âm: 2 thổ, 1 kim, 1 thủy.
Đại vận: --- Canh Thìn, --- Tân Tị, --- Nhâm Ngọ, --- Quý Mùi, --- Giáp Thân, --- Ất Dậu, --- Bính Tuất.
Nguyên đoán:Nhâm thủy sinh vào tháng Mão, chính là thủy mộc Thương quan cách. Thiên can Kỷ thổ lâm Tuyệt, địa chi có hai Thìn, chính là dư khí của mộc, vừa sinh kim vừa củng thủy, lại thấu hai Canh, không những Thìn thổ không thể chế thủy, mà trái lại sinh kim trợ thủy, nhất định lấy Mão mộc là dụng. Đây gọi là nhất thần đắc dụng, tượng này không phải xem nhẹ. Sơ vận Canh Thìn Tân Tị, thuộc đất kim vượng, công danh không được toạn nguyện; đến vận Nhâm Ngọ, sinh Tài chế kim, danh đề bảng nhãn; đại vận Quý Mùi sinh củng mộc thần, Giáp Thân chi toàn Bắc phương thủy cục, mộc gặp sinh trợ, quan vị liên đăng, từ Lệnh doãn mà được thăng lên chức Tư mã, tiến cử đến hoàng đường, được tiến cử là quan Quán sát mà tiến bước không ngừng nhậm chức tướng soái, vùa giao vận Dậu, xung phá mộc thần, bị liên lụy mà mất chức. Đây gọi là dụng thần không thể tổn thương, đây là lời nói chính xác vậy.
Thủy mộc Thương quan gặp Quan, Kiêu thần trọng nặng, gặp Quan không thấy Tài, có họa đến không nhẹ, xung khứ Quý nhân cũng hung tai.
Một mệnh tạo trong "Trích Thiên Tủy"
Càn tạo:
Thiên quan, Thiên Ấn, nhật nguyên, Thương quan
Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Giáp Thìn, Đinh Mão.
Hoa Cái, Quý nhân, Hoa Cái, Dương Nhận, Niên không, Sát Lộc
Thai nguyên Quý Dậu, lập mệnh cung Thân
Ngũ hành: 3 mộc, 3 thủy, 3 thổ, 2 hỏa, 1 kim; nạp âm: 1 kim, 1 mộc, 2 hỏa.
Đại vận: --- Quý Mùi, --- Giáp Thân, --- Ất Dậu, --- Bính Tuất, --- Đinh Hợi, --- Mậu Tý, ---- Kỷ Sửu.
Nguyên đoán: Giáp mộc sinh vào tháng trọng hạ, thời can Đinh hỏa lộ ra, dụng thủy để nhuận Giáp, đương nhiên thủy cũng được nhờ kim sinh, kim cũng được nhờ thủy dưỡng; kỳ diệu hơn là chi gặp hai Thìn, tiết hoặc sinh kim trữ thủy, nhất khí tương sinh, ngũ hành đầy đủ. Sớm được nhập Phán, khoa giáp liên đăng, làm quan đến chức Án sát. Cả cuộc đời duy chỉ vận Bính Tuất kim thủy đều thương tổn mà bất lợi. Ngoài ra hoàn cảnh đều thuận lợi.
Mộc hỏa Thương quan kiến Tài thần, Thất Sát bội Nhận chấn biên cương. Tự tọa Tài khố, thâm căn cố đế, hành vận bất kị, phú quý cũng biết.
Một mệnh tạo trong "Trích Thiên Tủy"
Càn tạo:
Chính , Thiên quan, nhật nguyên, Kiếp tài
Kỷ Hợi, Bính Tý, Canh Tý, Tân Tị .
Diêu xung, Quý nhân, Tướng Tinh, Lộc mã, Đào Hoa, Quý Thần
Thai nguyên Đinh Mão lập mệnh cung Tý
Ngũ hành: 3 thủy, 2 kim, 2 thổ, 2 hỏa, 1 mộc; nạp âm: 1 mộc, 1 thủy, 1 thổ, 1 kim.
Đại vận: Ất Hợi, --- Giáp Tuất, --- Quý Dậu, --- Nhâm Thân, --- Tân Mùi, --- Canh Ngọ, ---- Kỷ Tị.
Nguyên đoán: Canh kim sinh vào tháng trọng đông, Địa chi hai Tý vừa hại, can thấu Bính hỏa, khắc tiết cùng gặp. hỉ kỳ Kỷ thổ thấu lộ, tiết hỏa sinh kim, ngũ hành vô mộc, thanh đắc tận cùng. Đến năm Kỷ Tị, Ấn tinh đắc trợ, danh cao hàn uyển. Có chỗ bất túc là Ấn không đương lệnh, lại có Kỷ thổ ở xa lại hư, cho nên bị giáng chức xuống Nhậm Tri huyện.
Kim thủy Thương quan không gặp Tài, Bính Tân diêu hợp Kỷ tòng kim, Tị Hợi đáy biển xung phá, mời hội phương Bắc, kim bạch thủy thanh lắm kiêu ngạo.
Một mệnh tạo vĩ nhân ở thời cận đại Chu tiên sinh
Càn tạo:
Thương quan, Chính Ấn, nhật nguyên, Thiên Tài
Mậu Tuất, Giáp Dần, Đinh Mão, Tân Hợi.
Hoa Cái, Hợp cục, Tướng Tinh, Quan quý, Nhận mã, Vũ khố
Thai nguyên Ất Tị, Mệnh cung Bính Thìn
Ngũ hành: 4 mộc, 3 thổ, 2 hỏa, 1 thủy, 1 kim; nạp âm: 1 mộc, 1 thủy, 1 hỏa, 1 kim.
Đại vận: 1 tuổi Ất Mão, 11 tuổi Bính Thìn, 21 tuổi Đinh Tị, 31 tuổi Mậu Ngọ, 41 tuổi Kỷ Mùi, 51tuổi Canh Thân, 61 tuổi Tân Dậu.
Nạp ân của năm sinh là Bình địa mộc, đây chính là mộc mới sinh thì bắt đầu phát, mừng được công lao của mùa Xuân Hạ mưa móc ( tiết Vũ lộ), kỵ hàn lạnh của mùa Thu Đông tuyết sương; chính là nhân tài cương trực của quốc gia, là mộc để xây phòng ốc cho nhân gian: Mậu Tuất làm Đống ( xà ngang), Kỷ Hợi làm Lương ( xà nhà), tối hỉ cùng nhập mệnh. Nạp âm tháng Đại khê thủy sinh phù, Nạp âm ngày Lô trung hỏa làm ấm cục, Nạp âm giờ Thoa xuyến kim làm vận dụng điêu khắc; Nạp âm Thai nguyên Phúc đăng hỏa rực sáng mà chiếu Nhận Mã, Mệnh cung Sa trung thổ cấu thành ngũ hành đầy đủ, đương nhiên có cái tình sinh sinh không ngừng. Dần Mão củng Thìn là " Hàn cốc hồi Xuân" quý cách, Dần Tuất mời Ngọ làm Lộc thần, Hợi Mão củng Mùi là quý nhân. Minh ám mà thành cách, phúc thần cao chiếu, không hình không thương, tổ tiên tích âm đức che chở, danh lợi có phần, phúc thọ diên trường.
Hỏa thổ Thương quan bội Ấn, Thương quan bội Ấn nắm đại quyền. Đinh hỏa nhật chủ, đương nhiên có tính nhu hòa và bao dung; Thiên đức quý nhân nhập mệnh, đoan trang đôn hậu cẩn trọng, thông minh hiếu học, tâm địa từ thiện, gặp hung mà không hung, Đóng ở Kiêu Ấn Đào Hoa kèm theo Tướng Tinh, thanh tú cương nghị khí phách có trí. Nguyệt kiến Chính ấn với Tuất củng Ngọ hỏa lộc mã, Giờ lâm Quan quý Hợi thủy với Mão mời củng Mùi khố quý nhân, Dần Mão mời Thìn vũ khố đến, mộc hỏa thành cục mà khéo an bài. Đây là hình tượng thấy mà không thấy. Mậu Tuất Thương quan tọa thực, Giáp Dần Chính Ấn đắc Lộc, Thương quan bội Ấn là thể chính hợp, Mộc hỏa cháy sáng chiếu thiên địa. Thương quan bội Ấn đắc quyền danh, kỳ diệu mà không gì sánh được. Kim sinh Hợi thủy củng Ấn cục, Thương quan thương tận làm đại Quan. Tuất Dần Mão Hợi mộc hỏa sáng, Mậu Giáp Đinh Tân bất phân tranh. Vượng khí tụ vào một thân, Tài Quan Quý đức làm dụng của mình. Tương tự với mệnh tạo của Tát Trấn Băng tiên sinh đời đầu Thanh mạt dân: Kỷ Mùi Đinh Mão Đinh Mão Ất Tị. Mệnh Tát Công thì mộc là ngọn nguồn đến phúc thần, mệnh Chu công thì mộc hỏa lưỡng cục mang quý thần. Mệnh Tát công thì Mão Mùi củng Hợi quý, Mão Tị kẹp Long ( Mão Tị kẹp Thìn) hưng phong lôi; Mệnh Chu công thì Ly hỏa có thể mời Khảm cung xuất ra, mệnh Thanh đế có thể mời Bạch đế giao du, Hợi heo Dậu phượng dắt Thiên đức, mộc hỏa đồng tâm chiếu cửu châu. Đầu mùa Xuân hàn tà chưa đến, chính là mừng được mộc hỏa chiếu sáng; thanh tịnh thuần phát, khí thông suốt mà tinh thần vui vẻ, không đến mà bất lợi, kiến nghiệp lập công, chỉ tranh đoạt phút chốc, mà con đường Quan lộ hiểu hách, sử sách lưu danh ca tụng. Mộc vận phù trợ mệnh cục, hỏa vận làm vượng mệnh cục, Canh Thân Mậu Tuất hiển công đức, Tân Dậu Tân Hợi có thể có phúc may mắn, Nhâm Tuất bị trói buộc mà khó thi triển, Thương quan kiến Quan có hung họa.
Chu Ân Lai tiên sinh (1898----1976), tự Tường Vũ, nhũ danh Đại Loan, đã từng dùng tên Phi Phi, Ngũ Hào, Thiểu Sơn, Quan Sinh, v.v... Nguyên quán là ở Thiệu Hưng Triết Giang, Sinh ở Hoài An, Giang Tô. Năm 1913 vào học trung học ở Nam Khai, Thiên Tân, năm 1917 sang Nhật làm lưu học sinh, năm 1919 về nước tham gia hoạt động Ngũ Tứ, tổ chức tòa giác ngộ tham gia hoạt động cách mạng phản đế quốc phong kiến. Năm 1920 đến năm 1924 vừa học vùa làm ở Pháp và Đức, năm 1922 gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc, đảm nhiệm bí thứ chi bộ tổng Nữ Âu đoàn thanh niên XHCN Trung Quốc, đông thời tham gia công tác lãnh đạo chi bộ Tổng Nữ Âu Trung cộng. Năm 1924 từ Paris trở về nước, giữ chức chủ nhiệm tổng cục chính trị học viện quân sự Hoàng Phố, chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đoàn 1 quân cách mạng Quốc Dân, Ủy viên trưởng khu ủy Lưỡng Quảng Trung Cộng, Ủy ban Thường vụ kiêm Bộ trưởng Bộ Quân Sự, chủ trì thành lập đoàn độc lập lãnh đạo quân đội cộng sản cách mạng có vũ trang dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Năm 1925 đã lãnh đạo hai lần tiến hành Đông phạt, năm 1926 đã giữ chức bí thư quân ủy trung ương Trung cộng kiêm bí thư quân ủy khu ủy Triết Giang Trung cộng. Năm 1927 lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang lần thứ 3 của công nhân Thượng Hải và khởi nghĩa Nam Xương, nổ phát súng đầu tiên vào bọn phản động Đảng Quốc Dân. Trong khởi nghĩa đảm nhận chức bí thư ban chấp hành mặt trận Trung cộng, Đồng thời được bầu vào ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Năm 1928 tham dự hội nghị đại hội 6 của Đảng, đảm nhận chức Bộ trưởng tổ chức Trung ương, bí thư quân ủy Trung ương, năm 1931 sau khi tiến vào căn cứ địa cách mạng trung ương, đảm nhận chức bí thư Trung ương cục khu Xô-Viết Trung cộng, tổng Ủy viên chính trị của hồng quân công nông Trung Quốc kiêm chính ủy phương diện quân thứ 1, Phó Chủ tịch Ủy ban quân sự cách mạng Trung cộng. Mùa Xuân năm 1933 cùng với Chu Đức lãnh đạo và chỉ huy cuộc chiến tranh bao vây tiễu trừ bọn phản cách mạng lần thứ 4, đã giàng được thắng lợi to lớn. Tháng 1 năm 1935 trong hội nghị Tôn nghĩa là thành viên của tiểu tổ chỉ huy quân sự 3 người Trung cộng. Năm 1936 đàm phán với Tưởng Giới Thạch ở Tây An, đã giải quyết một cách hòa bình về biến cố ở Tây An. Thời kỳ chiến tranh chống Nhật, giữu chức đại biểu trung ương Trung cộng và bí thư cục miền Nam, đồng thời giữ chức phó bộ trưởng bộ chính trị ủy ban quân sự chính phủ Quốc Dân Đảng. Tháng 8 năm 1945 cùng Mao Trạch Đông đi Trùng Khánh, để cùng tiến hành đàm phán chiến tranh với Quốc Dân Đảng, sau khi ký 《 Hiệp định Song thập 》,dẫn đoàn đại biệu Trung cộng ở lại Trùng Khánh và Nam Kinh, năm 1946 trở về Diên An. Năm 1947 đảm nhiệm phó chủ tịch quân ủy trung ương và kiêm chức quyền Tổng tham mưu trưởng, sau thời kỳ lập quốc nhiều lần đảm nhiệm chức thủ tướng chính phủ, bộ trưởng ngoại giao, phó chủ tịch quân ủy trung ương, phó chủ tịch chính hiệp toàn quốc khóa 1, chủ tịch khóa 2, khóa 3. Ủy viên trung ưởng Đảng khóa 5, ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng từ khóa 6 đến khóa 10, bí thư ban bí thư trung ương khóa 6, đảng CS Trung Quốc, thành viên của ủy ban thường trực bộ chính trị Đảng CS Trung Quốc khóa 6, khóa 7, phó chủ tịch ban chấp hành trung ương đảng CS Trung Quốc khóa 10, là đại biều của đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc từ khóa 1 đến khóa 4. Trong " Cách mạng văn hóa" Chú ý toàn cục, nhẫn nhục chịu khó. Trong đại hội đại biểu nhân toàn quốc khóa 4 đại biểu Đảng đề nghị: ở trong thế kỷ này, toàn diện thực hiện nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và hiện đại hóa khoa học kỹ thuật, làm cho nến kinh tế quốc dân của nước ta đi vào quy hoặch to lớn đứng hàng đầu của thế giới.Năm 1972 sau khi bị bệnh, vẫn giữ vững công tác. Trước tác chủ yếu có 《 Chu Ân Lai tuyển tập 》.
Mệnh tạo của Tổng Thống Dân Quốc Tưởng tiên sinh.
Càn tạo
Thiên Ấn, Thương quan, nhật nguyên, Thương quan
Đinh Hợi, Canh Tuất, Kỷ Tị, Canh Ngọ
Thai nguyên: Tân Sửu. Mệnh cung: Quý Sửu
Thiên trì, Địa hộ, Dương Nhận, Quy Lộc, Hoa Cái, Hoa Cái
Ngũ hành: 4 hỏa, 4 kim, 3 thổ, 1 thủy, 1 mộc; nạp âm: 2 thổ, 1 kim, 1 mộc.
Đại vận: 7 tuổi Kỷ Dậu, 17 Mậu Thân, 27 Đinh Mùi, 37 Bính Ngọ, 47 Ất Tị, 57 Giáp Thìn, 67 Quý Mão.
Nạp âm năm sinh là mệnh Ốc thượng thổ, đây chính là sinh mộc thành rừng, thủy hỏa ký tế ( cứu giúp), bởi thế mới nói là che phủ được tuyết sương, cho nên công lao sự nghiệp vang động như phong vũ, lấy mộc làm nền tảng, lấy kim làm vinh hoa; có công ngăn được gió che được mưa, bao bọc được cái đức che được tuyết chống được hàn. Đinh Hợi được Canh Ngọ, âm dương cùng bổ sung cho nhau, càng giả như Mộc làm nền tảng mà chủ hiển quý. Nạp âm tháng sinh Thoa Xuyến Kim là hưng thịnh, Nạp âm của nhật chủ Đại lâm mộc là căn gốc, Nạp âm giờ sinh là Lộ bàng thổ khí nhược tựu cường. Thai nguyên thổ tường vách hội Tài mà quý, Mệnh cung Tang chá mộc quy về cấn sơn, Hoa cái trùng trùng, với Hợi Tý củng hóa làm cái ô lớn, vì vậy mà thấp nhuận phù trợ cho cái tình sinh phát. Tuất Hợi là Thiên môn ( cổng trời ) của cung Càn, Tị Ngọ là Đoan môn của cung Ly. Mệnh kỳ dị, thì nhất định là người kỳ dị, mà cũng nhất định làm việc kỳ dị.
Thổ kim Thương quan bội Ấn, Thương quan thương tận làm đại Quan. Nhật chủ Kỷ Tị, tự tọa Nhân vượng mà quy lộc ở giờ, đắc lệnh kèm Ấn thụ, thân vượng chắc chắn. Tối hỉ Thương quan kẹp nhật, nguyệt nhật đồng tông, thổ tú có lực. Quý là ở cục nhuận Đinh hỏa chế phục Lộc Mã dao xung ( xung cách xa). Ngọ Tuất cách vị mời củng Dần Hợi hợp, tinh khí thần khí đầy đủ, thân cường thể kiện. Tinh cung Giáp mộc tàng trong Hợi, Thương quan minh Tài bất thương Quan. Lộc Nhận lưỡng toàn nhân báo đạo ( là kẻ độc tài), Thương quan cơ trí nhiều ngạo cốt, Kiêu thần được chế người hung mãnh. Hợi là Thiên môn, Tuất là địa hộ, vị cư ở cung Càn mà chiếm giữ thủ lĩnh giang hồ; Ngọ là Đoan môn, Tị là Đại dịch, phong hỏa khởi ở cung Ly, Thiên quan ban phúc đáo môn đình, Đông Nam Tây Bắc tuy xa mà phối hợp chặt chẽ, tất cả đều chiếm cứ nửa bầu trời. Thương quan sợ gặp Quan, vận đến Giáp Thìn họa trăm mối; cho nên về ở ẩn ở Lư Sơn để tránh họa, sau khi mất giang sơn thì thoái về thủ ở Đài Loan.
Ông là người Phùng Hóa Triết Giang, tự là Giới Thạch, danh là Trung Chính, hoạc danh là Chí Thanh. Năm Đinh Mùi vận Mậu Thân học tập ở Học đường Lục Quân Bảo Định, năm sau đi Nhật học Quân sự. Năm Mậu Ngọ vận Đinh Mùi đảm nhận chức vụ Tư lệnh chi đội hai quân đoàn hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây và làm chủ nhiệm khoa tác chiến Bộ tư lệnh, năm Nhâm Tuất theo hầu Tôn Trung Sơn được tín nhiệm và coi trọng, năm Quý Hợi đảm nhận chức vụ Đại nguyên soái hải lục quân và chức Tham mưu trưởng hành dinh và Bộ chỉ huy tối cao, năm Giáp Tý giữ chức hiệu trưởng trường Quân sự Hoàng Phố kiêm Tham mưu trưởng Bộ tổng tư lệnh quan đoàn Quảng Đông Quảng Tây, năm Ất Sửu đảm nhận chức trưởng Quân đoàn 1 quân cách mạng quốc dân kiêm tổng chỉ huy Đông chinh lần thứ 2, năm Bính Dần tiến công bài trừ Đảng cộng sản nhậm chức chủ tịch ủy ban quân sự. Năm Đinh Mão lệnh lập chính phủ Quốc dân ở Nam Kinh, Mấy năm sau này liên tiếp củng cố địa vị thống trị của mình. Năm Bính Tý vừa nhập đại vận Ất Tỵ, trong sự cố Tây Ân hai người bị mắc kẹt ở Trương Dương; năm Tân Tị Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ được các nước Đồng minh đề cử là Thống soái tối cao ở chiến khu Trung Quốc, năm Bính Tuất bắt đầu tiến công giải phóng khu thất bại, năm Đinh Hợi bị ép buộc áp dụng chiến lược phòng ngự nhưng cũng bị thất bại, cùng năm đó tuyên cáo từ chức; năm Canh Dần phục chức đại tổng thống ở Đài Loan, liên nhiệm 4 khóa, năm Ât Mão ngày Thanh minh bệnh mà qua đời ở Đài Loan.
Mệnh Tào Côn tiên sinh
Càn tạo:
Thực thần, Thực thần, nhật nguyên, Thiên quan
Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Canh Tý, Bính Tý
Hoa Cái, Niên không Tướng Tinh, Tai tinh, Đào Hoa, Quan quý
Thai nguyên Quý Mão. Mệnh cung: Tị
Ngũ hành: 5 thủy, 2 hỏa, 1 thổ, 1 kim, vô mộc; nạp âm: 2 thủy, 1 mộc, 1 thổ.
Đại vận: 9 tuổi Quý Sửu, 19 Giáp Dần, 29 Ất Mão, 39 Bính Thìn, 49 Đinh Tị, 59 Mậu Ngọ, 69 Kỷ Mùi.
Nguyên đoán: Tứ trụ này có thể lấy Phi thiên lộc mã cách, hoặc lấy Kim thủy chân Thương quan cách, ngoài ra cho rằng mệnh này chỉ được một nửa vậy. Mệnh tạo này kim thủy hàn lạnh, mà nhật chủ lại nhược, Thực thương thì nhiều, cho nên chế Sát thái Quan, kỳ diệu ở chỗ Bát tự thuần dương, Thất sát Bính hỏa, tuy không thậm vượng, mặc dù có dương khí trợ giúp nhưng không đủ, đây chính là tượng thái cốc hồi xuân. Năm 44 tuôi Thìn Tuất xung khai hỏa khố, Thất sát bắt đầu hiển lộ, Thìn thổ lại có thể sinh phù nhật chủ, cho nên sau 44, cương đài trực thượng nhiều lần năm giữ binh quyền. Đinh Nhâm hóa mộc sinh Sát, Tỵ là đất trường sinh của Canh kim, Bính hỏa là chỉ gia đình có bổng lộc nhiều mà đẹp đẽ. Năm 59 vận Mậu lấy thổ khứ thủy, khắc tận Thực Thương, thì Bính Sát đắc dụng, đúng là thích hợp với những ngày uy quyền hưng long, bất ngờ trúng cử làm một nguyên thủy quốc gia. Chỉ có năm Giáp Tý, với tuế vận Mậu Tuất có tương chiến, mà còn Ất Sửu giao tới vận Ngọ, năm này giao khử ở mùa thu, bởi ba Tý xung một Ngọ. Ở Phi thiên lộc mã cách là Điền thực, ở Kim thủy chân Thương quan, là gặp Quan ( Kim thủy Thương Quan, tuy hỉ gặp Quan, nhưng cũng không nên xung khắc thái quá), ở trong cách chế Sát thái quá, là Quan Sát tranh quyền; mà 3 Tý xung một Ngọ, thủy vượng, hỏa suy, tháng 5 mùa Hạ năm nay, hoặc tháng 11 giữa Đông, e rằng có hung tượng. Thủy vượng hỏa suy, xung khắc thái quá, hoặc chủ về chính bản thân không tốt, cho nên mừng là Bính Dần mới chỉ là bắt đầu, vì vậy vẫn là vận đẹp. Mãi cho đến tận giao vận Thân, trước sau 20 năm, chức cao vọng trọng.
Tào Côn (1862~1938) là người Thiên Tân. Tự là Trọng San. Năm 1890 tốt nghiệp học đường võ bị Bắc Dương (cuối đời Thanh chỉ vùng duyên hải Phụng thiên - Liêu Ninh, Trực lệ - Hà bắc, Sơn đông) . Sau chiến tranh Giáp Ngọ Trung - Nhật đến cậy nhờ Viên Thế Khải, năm 1916 đảm nhiệm đốc quân Trực Đãi (địa phận quản lý dưới thời Minh-Thanh gồm Bắc kinh, Thiên Tân, hầu hết tỉnh Hà bắc, Hà Nam và một phần tỉnh Sơn đông). Năm 1919 được tôn sùng là thủ lĩnh trực tiếp, năm sau đảm nhận chức vụ tuần duyệt sứ Trực Lỗ Dự. Năm 1923 xúi dục quân cảnh bức tổng thống Lê Nguyên Hồng từ chức, trở lại thì mua mỗi một lá phiếu bầu cử từ 5 ngàn đồng đến 1 vận để hối lộ đút lót Nghị viện quốc hội và trúng cử chức tổng thống. Năm 1924 khi Phùng Ngọc Tường phát động chính biến ở Bắc Kinh thì bị bỏ tù, rồi bị bức phải từ chức. Năm 1926 được phóng thích. Ngày 17 tháng 5 năm 1938 bệnh chết.
Bắc Kinh Trữ Tướng quân mệnh tạo
Càn tạo:
Chính Ấn, Tỉ Kiên, nhật nguyên,Thương quan
Ất Hợi, Bính Tuất, Bính Dần, Kỷ Sửu
Quý nhân, Nguyệt Đức Nguyệt Đức, Tài khố, Tài khố, Dương Nhận
Thai nguyên Đinh Sửu, Mệnh cung Nhâm Ngọ.
Ngũ hành: 4 thổ, 3 hỏa, 3 mộc, 2 thủy, 2 kim; nạp âm: 1 thổ, 3 hỏa.
Đại vận: 3 tuổi Ất Dậu, 13 Giáp Thân, 23 Quý Mùi, 33 Nhâm Ngọ, 43 Tân Tị, 53 Canh Thìn, 63 Kỷ Mão.
Nạp âm năm sinh là mệnh Sơn đầu hỏa, đây chính là hỏa cháy lan trên đồng cỏ, giống như mặt trời lặn trên đỉnh núi, khác nào ánh sáng rực rỡ chiếu xiên nghiêng trên bầu trời, thành tro bụi mà vun bón cho đất được phì nhiêu mầu mỡ. Gặp Long xà ( Tị ) như hỏa gặp thế gió, gặp mộc hỏa là quy lộc giống như sự chiếu rọi sáng chói. Nạp âm tháng là Ốc thượng thổ tiết hỏa, nạp âm ngày là Lô trung hỏa mà chiếu rọi sáng trong, Nạp âm giờ là Tích lich hỏa mà xán lạn rực rỡ, Thai nguyên nhuận hạ thủy cứu tế, Mệnh cung Dương liễu mộc giống như ánh sáng rực rỡ. Thiên môn địa hộ, tất là người kỳ dị. Hỏa của tháng 9 mùa Thu chính có thể thành, nhập cách mà thích hợp. Không hình không thương, danh lợi lưỡng toàn, phúc thọ không thiếu.
Hỏa thổ Thương quan cách bội Chính Ấn, Thương Quan Thương Tẫn làm đại Quan. Bính hỏa sinh ở tháng tứ quý của mùa Thu, Thiên nguyệt nhị đức quý khí, gặp hung mà không hung, tà ác không xâm, hiền lành tốt đệp và nhân hậu còn thành tín, là người bình dị mà oai phong. Ất Bính sinh phù nhật chủ, nhật chủ tọa Dần trường sinh, mừng nhất giờ sinh Kỷ thổ Thương quan tiết tú. Hỏa thổ Thương quan cần thương tận, Thương quan thương tận tất làm Quan. Dần Tuất mời hợp chính khí Ngọ Nhận, Hợi Sựu mời hội Tý thủy chính khí, chính trụ Thiên can địa chi, lập mà bất bại. Hợi làm Thiên môn, Tuất làm địa hộ, Dần là Quảng cốc ( các đồng lúa rộng), giờ Sửu là Cấn sơn, lửa trời thiêu đốt ngoài đồng, tiến thoái tự nhiên. Thiên can nhất khí thuận hành sinh, địa khí ổn định lại tĩnh lặng, sinh hóa đều có tình. Năm tháng Hợi Tuất Không vong, Quý nhân hóa giải xuất Càn Khôn, mặt trời mọc ra khỏi Cấn sơn mà trời sáng. Hợi Tuất Dần Sửu hai cung đều có tình, đây là nơi tàng trữ bí mật huyền cơ của 《 tích thiên tủy 》, vô tình hay hữu tình đều tàng ở trong thấy mà không thấy. Sinh ra ở trong một gia đình giàu có có dòng dõi nho học, từ nhỏ đã sùng bái Chu Ân Lai tiên sinh và nhận được ảnh hưởng đó, 16 tuổi lưu học sinh ở Liên sô cũ, 19 tuổi huấn luyện ở học viện lục quân, 22 tuổi bước vào học viện cơ giới công trình, 25 tuổi bái sư chuyên tu lý hóa. 29 tuổi đáp lại Chu tiên sinh mà an bài về nước, đảm nhân chức vụ ủy ban khoa học quốc phòng, đồng thời cùng năm đó kết hôn. Sau hôn nhân sinh được hai trai một gái, hai con trai đều là sĩ quan quân đội cao cấp, một con gái làm cán bộ nhà nước. Thời kỳ cách mạng văn hóa vượt qua một cách thuận lợi, cùng đồng nghiệp trở về do mức độ không giống mà đều bị cách ly thẩm tra, duy chỉ có người này được Chu tiên sinh đặc biệt bảo hộ. Nhẫn nhục chịu khó, công trạng nổi bật xuất sắc, liên tiếp được thăng cấp, thuận buồm xuôi gió. Văn võ toàn tài, được đề bạt cho đến cấp bậc trung tướng làm cán bộ tham mưu cao cấp. Đại vận Kỷ Mão, lưu niên Bính Tuất, sức khỏe khang kiện không có ảnh hưởng gì, tình cảm vợ chồng càng thêm đằm thắm, con cháu hiếu kính, tình cảm cha con anh em trong gia đình đều vui vẻ hòa thuận.
Mệnh tạo tiên sinh họ Dương người Quảng Đông
Càn tạo:
Thương quan, Tỉ Kiên, nhật nguyên, Chính quan
Nhâm Dần, Tân Hợi, Tân Dậu, Bính Thân
Quý nhân, Dịch Mã, Tướng Tinh, Dịch Mã, Quý nhân, Vũ khố
Thai nguyên: Nhâm Dần. Mệnh cung: Canh Tuất
Ngũ hành: 3 tuổi, 3 kim, 2 mộc, 2 hỏa, 2 thổ; nạp âm: 1 mộc, 1 hỏa, 2 kim.
Đại vận: 7 tuổi Nhâm Tý. 17 Quý Sửu, 27 Giáp Dần, 37 Ất Mão, 47 Bính Thìn, 57 Đinh Tị, 67 Mậu Ngọ.
Nạp âm năm sinh là mệnh Kim bạc kim, đây chính là kim để miêu tả điêu khắc, rất mừng có thủy thanh tĩnh làm thuốc nhuộm, gặp được mộc làm bàn vẽ, mới hiển ra và phát huy được cái hiệu dụng của nó. Kim có thể cùng tỏa sáng, hỏa viêm thì hình thương kim, thổ dày chôn dấu kim. Nạp âm tháng Thoa Xuyến Kim cùng như tỏa sáng, nạp âm ngày Thạch lưu mộc được phát huy, Nạp âm giờ là Sơn hạ hỏa giữa nhân gian không bị hình thương. Thai nguyên với trụ năm cùng là một khí, mệnh cung với trụ tháng cũng cùng một khí, soi sáng lẫn nhau, được âm đức tổ tiên phù hộ nhiều. Tứ trụ không phân tranh không đố kỵ, trái lại có cái tình của đồng thanh tương cầu. Hỏa kim đúc Ấn, thì danh lợi có thể cầu, mệnh phúc thọ không thiếu.
Kim thủy Thương quan cách, Thương quan tọa Tài hỉ gặp Quan. Tân sinh tháng mùa Đông, trời thì giá rét mà đất đóng băng, mừng là can ngày Chuyên lộc mang Nhận, Dần Hợi lục hợp, trước nhược sau cường. Tối hỉ giờ sinh nhất dương Bính hỏa thấu lộ, Niên chi thông căn có dư khí, nơi hàn lạnh được sưởi ấm, hàng phục Nhận mà hộ Tài. Đây chính gọi là Thương quan hộ Tài hỉ gặp Quan, đất Tài Quan nhất định là đất vinh phát. Vận đầu là đất thủy, mộc hỏa không được chân dụng, tổ nghiệp vô thành, xuất thân bần hàn. Thời thanh thiếu niên theo đuổi nghiệp văn mà không được, sau đó bỏ văn mà theo nghiệp quân sự, sau phục viên không làm việc gì. Năm Kỷ Tị bắt đầu buôn bán kinh doanh, lỗ vốn 4 năm liền, nguyên nhân đều do kim thủy lưu niên đương đầu. Tháng giêng năm Giáp Tuất trốn nợ đến Cát Lâm, khuyên ông ta trở về quê nhà phương Nam làm lại từ đầu mà phát triển, tựa như thay đổi mộc hỏa, năm Mậu Tuất theo sự phản hồi là đã trả hết khuản nợ nước ngoài hơn 20 vạn, còn dư ra mười mấy vạn. Năm Quý Mùi gặp nhau ở Hàng Châu, đã có tài sản ròng hơn 500 vạn. Bắt đầu sản xuất thiết bị điện tử, sau này thay đổi sản xuất đèn tiết kiệm năng lượng. Kim thủy Thương quan, nhất định cần thân vượng, còn cần mộc hỏa đắc khí mà có lực, hành vận nhất định hướng dương để sưởi ấm, thì tất nhiên phát đạt.
Mênh tạo Khúc phu nhân người Bắc Kinh
Khôn tạo:
Chính Ấn, Tỉ Kiên, nhật nguyên, Thương quan
Nhâm Thìn, Ất Tị, Ất Mão, Bính Tuất
Hoa Cái quý nhân Tướng Tinh Lục Hợp Quan quý Dương Nhận
Thai nguyên: Bính Thân. Mệnh cung: Nhâm Dần
Ngũ hành: 3 hỏa, 3 thổ, 3 mộc, 2 kim, 2 thủy; nạp âm: 2 thủy, 1 thổ, 1 hỏa.
Đại vận: 2 tuổi Giáp Thìn, 12 Quý Mão, 22 Nhâm Dần, 32 Tân Sửu, 42 Canh Tý, 52 Kỷ Hợi, 62 Mậu Tuất.
Nạp âm năm sinh mệnh Trường lưu thủy, đây là thủy quy về mộ khố hồ lớn, hỉ kim sinh dưỡng, Thoa Xuyến Bạch Lạp là rất đẹp; gặp Thìn Tị là trở về vị trí cũ tương sinh, gặp Tuất Hợi là đất Quy lộc. Rõ ràng thấy gió sấm mà không thấy mưa, mệnh nhược có thể biết. Nạp âm tháng là Phú đăng hỏa rực sáng, Nạp âm ngày là Đại khê thủy bỏ nhược mà tựu cường, Nạp âm giờ Ốc thượng thổ hỗn trọc; không có mộc chải truốt, do vậy mà hỗn trọc không thanh. Thai nguyên Sơn hạ hỏa kèm theo Quý thần, Mệnh cung Kim bạc kim thanh tú, thủy nguồn bất tận, nếu không thì rất tồi tệ. Kỳ diệu ở chỗ gió sấm khởi đại trạch ( song ngòi), nhật môn thông địa hộ, quý không thể tả nổi.
Ất mộc sinh tháng 4, Thiên can thấu Bính hỏa, chính là mộc hỏa Thương quan cách. Thương quan bội Ấn, Thương quan sinh Tài, Thương quan thương tận, Thiên địa nhất khí thuận hành lưu chuyển, "Mộc hỏa cháy sáng văn chương tú". Nhâm thủy chính Ấn tọa khố, trong cục vô kim, kim chỉ duy nhất nhờ vả vào một chữ Thìn, tiêu hỏa dưỡng mộc mà được nhờ ở căn gốc. Tỉ kiên bang trợ, Chuyên lộc hợp tài, đáy biển xung mà không tiêu tan; Quý nhân lộc mã, tinh thần khí đầy đủ, khí an định mà tinh thần vui vẻ, sinh hóa có tình. Mão Tuất là nhật môn hộ, Thìn Tuất kẹp mà bao gồm gió sấm động; lại Thìn Tị Mão nhất khí Đông Nam, cung đối xa với Long đầu cung Càn Tây Bắc, đây là thấy hình mà như không thấy, đây là một huyền cơ ẩn giấu lý lẽ bên trong. Trong cục xen lồng có cục, trong cách lại có cách, trong kỳ diệu lại thêm sự kỳ diệu. Nếu là Nam mệnh, thì quyền thế không thể hạn lượng. Đại vận một đường mộc hỏa phù cục, Thiên địa thông suốt thái hòa, hợp Sát hóa Ấn, gặp Quan có tình, Thiên đị tác phối. Tốt nghiệp ở Học viện ngôn ngữ Quốc tế Hắc Long Giang phía Đông Bắc Trung Quốc, du học về chuyên ngành thương mại về nước. Năm Ất Sửu thăng chức làm cục trưởng giáo dục, năm Mậu Thìn được đề bạt làm phó thị trưởng, năm Tân Mùi vào trường Đảng học tập, năm Giáp Tuất đảm nhận chức thị trưởng kiêm phó bí thư, năm Ất Hợi bổ nhiệm Bí thư thị ủy ban chính trị pháp luật, năm Mậu Dần được điều đến thành phố Địa Cấp đảm nhiệm chức phó thị trưởng thành phố, năm Tân Tị được thăng chức được điều đến làm ở các ban ngành Trung ương. Đại vận Kỷ Hợi thiên can địa chi không phá cục, phong lôi ( sấm gió) Càn Đoài nhuận trạch có dư, vũ lộ ( mưa móc) không giảm, phú quý đều tăng. Đại vận Mậu Tuất thiên địa xung phá cục, đoán là thủy đến gây cản trở Lộc, danh lợi đều không. Mệnh tạo này với mệnh tạo Tưởng Giới Thạch cũng là đại đồng tiểu dị, Thương quan có chế, Chính quan thâm tàng ở trong trường sinh.
Mệnh tạo nữ sĩ họ Dương, tập đoàn công ty chế tạo xe hơi.
Khôn tạo:
Tỉ Kiên, Kiếp tài, nhật nguyên, Thương quan
Quý Mão Nhâm Tuất Quý Tị Giáp Dần
Quý nhân, Tài khố, Quý nhân, bán hình Hoa Cái, Quý nhân
Thai nguyên: Quý Sửu, Mệnh cung: Đinh Tị
Ngũ hành: 3 mộc, 3 hỏa, 3 thổ, 2 thủy, 2 kim; nạp âm: 3 thủy, 1 kim.
Đại vận: 8 tuổi Quý Hợi, 18 Giáp Tý, 28 Ất Sửu, 38 Bính Dần, 48 Đinh Mão, 58 Mậu Thìn, 68 Kỷ Tị.
Nạp âm năm là mệnh Kim bạc kim, đây chính là kim được gọt giũa thành chén cốc thau chậu sáng bóng phục vụ trong cung thất, mà để kim được đánh mỏng thì cần giựa vào một loại kim loại đặc biệt , mà muốn kim được lên mầu sáng đẹp thì lại phải dựa vào thủy. Vì vậy mà kim này quá múc nhỏ bé sâu xa, tuyệt xứ sinh tồn, thế đơn lực bạc, chỉ được xem là thuốc nhuộn; chỉ có công dụng mô tả đồ tranh sức, mà không có lực tranh chiến khắc phạt. Hỉ thủy cần mộc, kị hỏa viêm thổ dày. Nạp âm tháng là Đại hải thủy hình thương, Nạp âm ngày là Trường lưu thủy thanh tú, Nạp âm giờ Đại khê thủy hình thương; Thai nguyên Cấn sơn gặp mộc, Mệnh cung Sa thổ hỗn trọc, tốt ở Quý thần nhập mệnh, gặp hung mà hóa cát. Thủy đại kim trầm, bị khinh bỉ sỉ nhục, tâm tư sầu khổ, phúc thọ có giảm.
Nhật chủ Quý thủy, tháng 9 mùa Thu tạp khí Tài Quan tư lệnh, thủy mộc Thương quan sinh Tài, Quan tinh năm quyền. Mão Tuất nhất hợp, Quan Ấn không thuần, Dần Tị nhất hình, Tài quý không thật, mộc hỏa thừa vượng Ấn bị thương, Tỉ Kiếp hư thấu bản thân mình khó giữ, Thương quan tiết hao tinh khí nhật nguyên qua nặng, vậy đã rõ thân nhược vô cùng. Bản tính của Quý thủy là thuận hòa, có khí thì tòng khí, có thế thì tòng thế, tâm chí nó tất phụ thuộc vào Thực Thương, thân nhược Tỉ kiếp bang trợ nhân duyên tốt, tự tọa Tài quý nhiệt tâm trong sáng mà thiện lương, thông minh sáng suốt mà tú khí cao ngạo, thích giao tiếp thiện lương mà chu toàn. Thiên can nhất khí thuận hành, địa chi nhất khí hồi sinh, không phân tranh đố kỵ, xử sự thái hòa. Tài tàng thì phong phú, Quan tàng thì thực quyền, kỳ diệu là ở Nạp âm một kim 3 thủy, nhất phiếm thấp nhuận, sức lực đầy đủ. Đây là thấy hình mà như không thấy, một huyền cơ ẩn chứa bên trong vậy. Hoa đẹp thì cần lá xanh tô diểm, đại vận một đường cát thuận không trái ngược, thiên địa thông thái, Tài tọa đất sinh, Quan lâm vượng địa, không khắc không chiến, sinh hóa hữu tình. Vận đầu Quý Hợi Giáp Tý thuận buồn suôi gió vượt sóng cả, tốt nghiệp trường khoa học Bắc Kinh, du học ở Đức chuyên tu về sản xuất quản trị Marketinh, năm Kỷ Tị đảm nhận phiên dịch cho một công ty chế tạo cơ giới của Đức có trụ sở ở Trung Quốc. Năm Nhâm Thân vận Kỷ Sửu kết hôn sinh một con trai, năm Ất Hợi chuyển sang nhà máy chế tạo xe hơi đảm nhân chức công trình sư và phụ trách công tác điều tra nghiên cứu thị trường, năm Đinh Sửu được thăng chức là trợ lý phòng thị trường, năm Canh Thân được đề bạt làm phó tổng giám đốc phòng thị trường. Vận Bính Dần năm Giáp Thân được đề bạt làm tổng thanh tra phòng thị trường. Lưu niên Bính Tuất, hôn nhât xuất hiện nguy cơ, công tác xuất hiện sai sót. Sang năm Đinh Hợi thiên địa có hợp hóa Thực Thương đang có chuyển biến tốt đẹp. Sau này lưu niên có 4 thổ kim cát thuận không lo, năm Nhâm Thìn vận Đinh Mão quần Kiếp tranh Tài, thật là có lỗi lo buồn, tuy có Dần Mão Thìn tam hội Thương quan cục phương Đông, chỉ tiếc rằng Thìn Tuất vừa xung thì mộ khố mở, thủy hỏa kích động mà bất lợi cho Tài Quan. Sau này đến 60 tuổi cơ bản không có lo lắng gì lớn, có thể có thêm một ngôi lầu. Năm Giáp Thìn Thương quan gặp Quan, lại không có Tài hộ Quan. Trước là rủi về lộc quyền sau là thương hại chồng, thấp nhất cũng là phá Tài tránh được họa hoặc thương hại đến thân thể.
Mệnh tạo Từ Đổng người Giang Tô
Càn tạo:
Thiên Tài, Thương quan, nhật nguyên, Thiên Ấn
Tân Mão, Mậu Tuất, Đinh Dậu, Ất Tị
Đào Hoa Lục Hợp Văn Xương Nhận mã Tài khố Quý nhân
Thai nguyên: Kỷ Sửu. Mệnh cung: Canh Dần
Ngũ hành: 3 kim, 3 thổ, 2 hỏa, 2 mộc, vô thủy; nạp âm: 2 mộc, 2 hỏa.
Đại vận;6 tuổi Đinh Dậu, 16 Bính Thân, 26 Ất Mùi, 36 Giáp Ngọ, 46 Quý Tị, 56 Nhâm Thìn, 66 Tân Mão.
Nạp âm năm là mệnh Kim bạch kim, đây chính là loại kim lợi mà được gọt giũa trau chuốt để dùng cho cung thất mà lại tự tuyệt, mà để dát mỏng được kim thì phải dựa vào một loại kim loại đặc biệt, mà muốn làm cho mầu sắc của kim được sáng thì lại phải nhờ thủy gọt giũa. Kim này quá bé nhỏ, mà thể mỏng cho nên không thể là nguồn, không có thủy mộc thì không có chỗ dựa, hỏa viêm thổ dày chủ về thọ yểu. Tháng 9 mùa Thu gặp Tị Dậu, trước nhược sau cường. Nạp âm tháng là Bình địa mộc làm nơi nương tựa, Nạp âm ngày là Sơn hạ hỏa thì hình thương, Nạp âm giờ Phú đăng hỏa cháy sáng, có mộc mà vô thủy là lực của nó ( hỏa). Thai nguyên lộ bàng thổ thì hình thương, Mệnh cung tùng bách tọa Quý thần. Mệnh mang hình thương, danh lợi có tổn, là mệnh lên xuống thất thường.
Nhật chủ Đinh Dậu, sinh vào hạ tuần của tháng 9 mùa thu, thổ vượng tư lệnh nắm quyền, là Hỏa thổ Thương quan bội Ấn cách. Đinh hỏa âm nhu, tự tọa trường sinh có Tài thần Quý nhân và Văn xương tinh, năm tháng Mão Tuất lục hợp mà không khắc chiến, ngày giờ Tị Dậu củng Tài cục. Tháng có dư khí, giờ quy Nhận vượng, Ất Mão sinh thân không phải nhược, Thương quan sinh Tài phú quý do trời định. Sơ vận đất kim gặp hỏa cái đầu, thiên địa không che trở nhau thì nhất định có họa. Phụ mẫu ly dị, gia đình mồ côi, thiếu niên cô khổ sinh trưởng ở nhà ông nội, tốt nghiệp ở học viện cơ giới Bắc Kinh. Năm Giáp Dần được bố trí công tác làm nhân viên kỹ thuật đường sắt, năm Đinh Tỵ được điều về quê hương đảm nhận chức trợ lý công trình sư ngành giao thông. Năm Tân Dậu do vấn đề nam nữ mà tạo ra lầm lỗi trong công tác bị xử lý, năm Giáp Tý được điều đến cục quản lý đường cao tốc đảm nhận chức công trình sư, năm Đinh Mão do đi cứu giải sạt lở công trình mà bị tại nạn nghiêm trọng gãy xương đùi, năm Canh Ngọ đột nhiên được thăng vượt cấp làm chủ nhiệm giám sát chất lượng của tổng công ty. Năm Giáp Tuất từ chức xuống biển tổ chức và thành lập công ty nhận thầu xây dựng công trình, trong năm đó hoặch lợi được 10 vạn. Năm Canh Thìn nhiều lần sảy ra sự cố lớn, tổn thất nặng nề. Năm Quý Mùi Thương quan hợp Sát do họa mà được phúc mà có thay đổi lớn vươn lên, năm Ất Dậu do gọi thầu hai lần bất lợi mà tổn hại nghiêm trong. 56 tuổi vào vận Nhâm Thìn, với nhật nguyên thiên hợp địa hợp, hợp trói buộc mà khó phát huy, Thương quan gặp Quan là họa bách đoan, Dương nhận tiết khí mà thân nhược thì không thể thắng Tài mà thương Quan. Cho nên cần dòng thác dũng mãnh đẩy lui, người thông hiểu thì có thể bảo vệ được mình.
Anh Letung cho em hỏi cách cục tứ trụ này là Thương quan bội Ấn hay Thương quan sinh Tài. Em hiện nay buôn bán tự do ( công việc chính là nhập hàng điện tử : loa, main,amply cho ông anh phân phối lại và bán hàng cho khách hàng em...). Thanks anh!
http://dichvu.lyso.vn/lasotutru/2U2OOTHK.jpg (http://http://dichvu.lyso.vn/lasotutru/2U2OOTHK.jpg)
Chào bạn ithieu:
- Xét tứ trụ của bạn thì Giáp nhật chủ sinh vào tháng Mùi là Tài cách. Cho nên nguyên bản ban đầu ta xét là Tài cách. Nhưng trong mệnh bạn thì trụ năm, tháng, giờ đều thấu Đinh hỏa cho nên ta có thể xét theo Thương quan phối Ấn cách. Nguyên tắc của Thương quan phối Ấn cách là thân nhược dụng Ấn, hỉ thần là Kim, Kỵ thần là Tài.
- Trong trụ Thương quan lộ rõ ở 3 trụ lại có mộc sinh cho nên Thương quan cực vượng khiến mệnh cục của bạn ở trong trạng thái hỏa mãnh liệt mà thổ cháy khét. Trong trụ tuy Giáp mộc có căn nhưng lại sinh ở vào cuối mùa hè cho nên mộc này là củi khô thành ra Thương quan tiết khí nhật chủ rất mạnh khiến nhật chủ biến nhược.
- Trụ ngày là Tý thủy hình với hai Mão trụ giờ và trụ năm, Thủy ở đây cũng ở trạng thái suy nhược, lại không có Quan Sát kim sinh phù, cho nên cũng là một tác nhân làm cho Thương quan vượng thêm.
- Tựu trung lại là mệnh này cần Thủy vượng vừa sinh nhật chủ vừa để làm mát mệnh cục. Cần kim để hộ Ấn khỏi bị Tài phá Ân dụng thần.
Từ những gợi ý trên thì bạn cũng đã hiểu phần nào về hỉ kỵ thần của mình. Còn về phần Cách cục bạn có thể tham khảo thêm Sách Quản kiến tử bình mà diễn đàn đã đưa lên rồi.
Còn về phần luận về nghề nghiệp thì bạn nên đưa mệnh của mình vào toppic nhờ giải bát tự để các anh chị cùng luận cho bạn. Vài lời góp ý và chia sẻ cùng bạn.
Tứ trụ em hỉ kiếp tài pk anh letung? Kiep tài chế tài khỏi phá ấn ^^. Thanks anh LeTung
Powered by vBulletin® Version 4.1.12 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.